1. Khái niệm biên bản khám nhà

Khám xét là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát, cưỡng chế người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội; đồ vật, tài sản do người phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện xác chết hay người đang bị truy nã, người bị bắt cóc.

Biên bản khám nhà là văn bản do cơ quan điều tra lập khi thực hiện việc khám chỗ ở theo lệnh của người có thẩm quyền. Biên bản khám nhà là văn bản pháp lí thể hiện toàn bộ hoạt động khám xét chỗ ở khi có căn cứ để nhận định rằng ở đó có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã.

Biên bản thể hiện được toàn bộ các hoạt động khám xét nhà như thời gian, địa điểm tiến hành ,„ khám xét, những người tiến hành khám xét, những người chứng kiến khám xét, đại diện gia đình có nhà bị khám xét và toàn bộ diễn biến, nội dung của quá trình khám xét, kết quả khám xét. Đồng thời biên bản cũng ghi nhận các khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của những người tham gia hoặc có liên quan đến việc khám nhà.”

Biên bản khám nhà phải có chữ kí của những người thực hiện lệnh khám nhà, người chứng kiến thực hiện việc khám nhà và đại diện gia đình có nhà bị khám.

2. Thẩm quyền khám xét chỗ ở

Căn cứ theo quy định tại Điều 193 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền ra lệnh khám xét, cụ thể như sau:

"Điều 193. Thẩm quyền ra lệnh khám xét

1. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của những người được quy định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.

2. Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.

3. Trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám xét.

4. Mọi trường hợp khám xét đều được lập biên bản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này và đưa vào hồ sơ vụ án.

3. Khi nào công an được quyền khám xét chỗ ở của người dân?

Hiến pháp nước ta (Hiến pháp năm 2013) quy định cụ thể: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở". Do đó việc khám xét chỗ ở của cá nhân phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luât. Cụ thể Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định cụ thể về việc khám xét chỗ ở, như sau:

3.1 Khám xét theo thủ tục hành chính

Công an được quyền khám xét theo thủ tục hành chính trong các trường hợp sau: Việc khám xét nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là nhờ ở được tiến hành khi có căn cứ cho rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Việc khám xét được tiến hành theo trình tự, thủ tục như sau:

* Trước khi tiến hành khám xét.

- Chủ tịch UBND cấp huyện xem xét, quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là nhà ở.

- Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có quyết định bằng văn bản và phải lập biên bản. Quyết định và biên bản khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải được giao cho người chủ nơi bị khám 01 bản.

*Trong quá trình khám xét:

- Khi khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có mặt người chủ nhà, nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ và người chứng kiến. Trong trường hợp người chủ nơi bị khám, người thành niên trong gia đình họ vắng mặt mà việc khám không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và 02 người chứng kiến.

Không được khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc việc khám đang được thực hiện mà chưa kết thúc nhưng việc khám xét vào ban đêm phải ghi rõ lý do vào biên bản.

3.2 Khám xét theo thủ tục tố tụng hình sự

Việc khám xét theo thủ tục tố tụng hình sự chỉ được tiến hành nếu có một trong các căn cứ như sau:

- Khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.

- Khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.

Việc khám xét chỗ ở, nơi làm việc cần được tiến hành theo các trình tự, thủ tục cụ thể như sau:

* Trước khi tiến hành khám xét.

- Trước khi tiến hành khám xét, những người có thẩm quyền theo Khoản 2 Điều 35, Khoản 1 Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của những người được quy định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.

- Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người khẩn cấp theo Khoản 2 Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quyền ra lệnh khám xét.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.

- Trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám xét.

Mọi trường hợp khám xét đều được lập biên bản theo quy định và đưa vào hồ sơ vụ án.

* Trong quá trình khám xét

- Đối với chỗ ở của cá nhân thì phải có mặt người đó hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến.

Trường hợp cá nhân đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và 02 người chứng kiến.

- Đối với nơi làm việc của cá nhân thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.

Việc khám xét nơi làm việc phải có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi cá nhân làm việc chứng kiến. Trong trường hợp không có đại diện cơ quan, tổ chức thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và 02 người chứng kiến.

Khi tiến hành khám xét chỗ ở, nơi làm việc những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám xét, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xét xong.

Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản

Quy trình và thủ tục khám xét được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 192, Điều 193, Khoản 1,2,2 và Khoản 5 Điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

4. Phân biệt giữa khám xét hành chính và khám xét hình sự

- Về căn cứ:

+ Khám xét theo thủ tục hành chính được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người vi phạm cất giấu trong người đồ vật, tài liệu, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính hoặc địa điểm đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (điều 127, 128 và Điều 129 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012).

+ Khám xét theo trình tự tố tụng hình sự là việc khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.

- Người có thẩm quyền ra lệnh khám xét.

Những người sau đây có thẩm quyền quyết định khám xét theo thủ tục hành chính:

+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, Trưởng Công an phường; Trưởng Công an cấp huyện; Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát trật tự, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt...

+ Thủ trưởng đơn vị cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên, Trạm trưởng Trạm công an cửa khẩu; Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động,...

+ Chi cục trưởng Chi cục Hải quan, Đội trưởng Đội kiểm soát thuộc Cục Hải quan, Đội trưởng Đội kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng Hải đội kiểm soát trên biển thuộc Cục điều tra chống buôn lậu Tổng cục hải quan; Đội trưởng Đội quản lý thị trường... (khoản 1 Điều 123 Luật Xử lý vi phạm hành chính).

Tuy nhiên, trong trường hợp nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là chỗ ở thì những chủ thể nói trên đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định.

Những người sau có quyền quyết định việc khám xét theo trình tự hình sự: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp (trường hợp này, lệnh khám phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành); Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử (điều 194 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

Một số chủ thể khác thuộc lực lượng bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, kiểm ngư... được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng có quyền ra lệnh khám xét nhưng phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.

Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng có quyền ra lệnh khám xét, bao gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng,...; người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

Tuy nhiên, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.

- Khám xét khẩn cấp:

Việc này được thực hiện trong những trường hợp sau:

+ Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

+ Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;

+ Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Việc khám xét dù theo trình tự hành chính hay tố tụng hình sự thì về cơ bản cũng phải tuân thủ một số nguyên tắc sau:

+ Trước khi khám phải thông báo hoặc đọc lệnh cho đối tượng bị khám biết.

+ Đối với khám người thì nam khám nam, nữ khám nữ.

+ Đối với khám phương tiện, nơi ở, nơi làm việc) thì phải có mặt người chủ sở hữu hoặc người quản lý và có người chứng kiến. Trường hợp không có chủ sở hữu hoặc người quản lý thì việc khám vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền và hai người chứng kiến.

+ Không được khám vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc việc khám đang được thực hiện mà chưa kết thúc nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.

+ Việc khám phải được lập thành biên bản theo luật định.

Luật Minh Khuê (Biên tập & sưu tầm)