1. Lựa chọn người bào chữa là gì?

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, thì người bị buộc tội có quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Nếu nhờ người khác bào chữa thì họ sẽ lựa chọn người mà họ cảm thấy thích hợp để làm người bào chữa cho mình.

Việc lựa chọn người bào chữa sẽ phụ thuộc vào ý chí của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất thì họ và người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền lựa chọn người bào chữa. Còn nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã thành niên và không có nhược điểm về tâm thần, thể chất thì chỉ họ mới có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu người thâm thích hoặc người khác lựa chọn người bào chữa cho họ thì tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa đó nếu đã có sự ủy quyền của bị can, bị cáo hoặc nếu không có sự ủy quyền thì phải được sự đồng ý của bị can, bị cáo đối với người bào chữa đã được lựa chọn.

2. Chỉ định người bào chữa là gì?

Có trường hợp, người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa nhưng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ chỉ định người bào chữa.

Điều này thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước.

3. Quy định về lựa chọn và chỉ định người bào chữa

Vấn đề thủ tục lựa chọn và chỉ định người bào chữa đã có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn khác nhau, thể hiện tại khoản 1 và 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn và một trong những trường hợp chỉ định bắt buộc người bào chữa khí bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy đỊnh tại Bộ luật hình sự. Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012) quy định tại điểm b khoản 3 Điều 27 là “người khác" có thể nhờ người bào chữa cho người bị buộc tội. Nhằm giải quyết những vướng mắc trong cơ chế đảm bảo cho người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam có cơ hội tiếp cận với người bào chữa, Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ có thể lựa chọn người bào chữa. Điểm e khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định diện người thân thích của người tham gia tố tụng khá rộng, bao gồm: "Vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột”.

4. Thủ tục nhận và chuyển đơn yêu cầu người bào chữa

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, bị tạm giữ phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị tạm giam không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa.

Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để có ý kiến về việc nhờ người bào chữa. Tuy nhiên, điểm mới là trong trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối theo khoản 2 Điều 77 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

5. Chỉ định người bào chữa

Mặt khác, nhằm tạo điều kiện cho những người bị mức án cao theo quy định của Bộ luật hình sự có cơ hội được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa bắt buộc cho mình, cũng như tăng cơ hội cho những luật sư trẻ hiện nay chưa có điều kiện cọ xát thực tiễn, tích lũy kinh nghiệm, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định, nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình.

So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng thêm trường hợp được bào chữa bắt buộc không chỉ riêng đối với những người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội theo khung hình phạt cao nhất là tử hình mà còn đối với những người về tội mà BLHS quy định mức cao nhất là 20 năm, tù chung thân; quy định thêm điều kiện người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa.

Điều 76 BLTTHS năm 2015 đã mở rộng diện người bào chữa gồm cả trợ giúp viên pháp lý để bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp người bị buộc tội mà còn phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn hiện nay khi đa phần trợ giúp pháp lý đều không có thẻ luật sư nên khó khăn trong việc tiếp cận và bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội.

6. Một số bất cập, hạn chế trong việc thực hiện quy định chỉ định người bào chữa

- Tại điểm b khoản 1 Điều 76 BLTTHS năm 2015, có quy định chủ thể được bào chữa bắt buộc là người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, quy định của BLTTHS là như vậy nhưng trong thực tiễn áp dụng rất khó khăn khi áp dụng, vì có nhiều cách hiểu khác nhau đối với trường hợp trên và hiện tại chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn áp dụng.

Đối với người bị buộc tội có nhược điểm về tâm thần thì khó khăn nhất là trường hợp những nhược điểm này không phải bẩm sinh mà xuất hiện trong quá trình điều tra, xét xử vụ án. Khi cơ quan tiến hành tố tụng có nghi ngờ về tình trạng tâm thần của người bị buộc tội thì các cơ quan này phải trưng cầu giám định. Vì vậy, pháp luật cần phải quy định thời điểm ra quyết định trưng cầu giám định tâm thần là thời điểm các cơ quan này có nghĩa vụ đảm bảo người bào chữa cho người bị buộc tội chứ không chờ kết luận giám định. Vì nếu kết luận giám định là người bị buộc tội có nhược điểm về tâm thần thì sẽ đảm bảo được quyền bào chữa cho họ ngay từ đầu. Còn kết luận giám định không có nhược điểm về tâm thần thì lúc này sự tham gia tiếp theo của người bào chữa trong vụ án sẽ được giải quyết như trường hợp thông thường khác, tức là trên cơ sở thỏa thuận giữa người bị buộc tội và người bào chữa.

- Mặc dù tại khoản 6 Điều 78 BLTTHS năm 2015 quy định:“Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp: Người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa; Người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa” và tại điểm o khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015, quy định người bào chữa có quyền:“Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này”. Với quy định như trên nhưng thiếu văn bản hướng dẫn thì việc người bào chữa gặp bị cáo sau phiên tòa sơ thẩm để thống nhất, trao đổi thực hiện một số công việc như kháng cáo, các hoạt động khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội sẽ khó khăn và không được gặp như thực tế đã diễn ra trong thời gian qua.

- Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, người đại diện hoặc người bào chữa cho người bị buộc tội có quyền và nghĩa vụ tham gia, chứng kiến khi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, lấy lời khai của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Trường hợp người bị buộc tội không có người đại diện hoặc khi mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa liên hệ, không tìm được người đại diện của người bị buộc tội, chưa tìm được luật sư bảo vệ, bào chữa, thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể mời luật sư trực ban tham gia ngay các hoạt động tố tụng này để đảm bảo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.

- Hiện nay BLTTHS và các văn bản hướng dẫn chưa có chế định nào xử lý những hành vi cản trở hoạt động hành nghề của người bào chữa. Trên thực tế, cũng chưa thấy vụ án mà người tiến hành tố tụng bị xử lý nghiêm túc, công khai về hành vi này, cùng lắm chỉ là nhắc nhở, rút kinh nghiệm nội bộ. Do đó, cần phải có chế tài xử lý nghiêm vi phạm của người tiến hành tố tụng.

- Cơ quan tiến hành tố tụng và người bào chữa đều có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật, tôn trọng nhau và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong khuôn khổ của pháp luật cho phép để tìm ra sự thật của vụ án. Sự chế ước giữa người bào chữa với cơ quan tiến hành tố tụng thể hiện sự giám sát lẫn nhau trong quá trình thực thi nhiệm vụ để pháp luật được thi hành đúng đắn. Một sai sót hay một sự lạm quyền của bên này đều có thể thành sự tranh luận hoặc chỉ trích của bên kia. Sự chế ước này còn góp phần làm giảm thiểu sự vi phạm pháp luật của những người nói trên trong quá trình giải quyết vụ án với mục đích cuối cùng là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Vị thế của người bào chữa với những quyền hạn và nghĩa vụ như hiện nay thì người bào chữa khó trở thành đối tượng, cân sức với cơ quan tiến hành tố tụng đầy đủ quyền lực, nên cần phải cải cách, phải gia tăng thêm quyền hạn để người bào chữa đủ điều kiện chế ước.

LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)