1. Cách thức phân loại tội phạm theo luật hình sự trước đây

Có nhiều cách phân loại tội phạm khác nhau. Mỗi cách phân loại dựa trên tiêu chí nhất định và nhằm những mục đích khác nhau. Ví dụ: căn cứ vào tính chất của lỗi có thể phân tội phạm thành tội cố ý và tội vô ý; căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm có thể phân tội phạm thành tội có cấu thành tội phạm vật chất và tội có cấu thành tội phạm hình thức... Phân loại tội phạm có thể là phân loại tội phạm trong luật hoặc trong nghiên cứu luật hoặc trong thực tiễn áp dụng luật.

Trong Bộ luật hình sự, tội phạm trước hết được phân thành các nhóm tội khác nhau dựa trên mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội. Bộ luật hình sự năm 1985 phân tội phạm thành hai nhóm với mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Đó là tội phạm ít nghiêm trọng có tính gây nguy hại không lớn cho xã hội và tội phạm nghiêm trọng có tính gây nguy hại lớn cho xã hội. Để có cơ sở cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự ở mức độ cao hơn. Bộ luật hình sự năm 2015 phân tội phạm thành bốn nhóm tội: tội phạm ít nghiêm trọng; tội phạm nghiêm trọng; tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tương ứng với bốn mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội nguy hại không lớn, nguy hại lớn, nguy hại rất lớn và nguy hại đặc biệt lớn, đây cũng là bốn mức độ của tính chịu hình phạt. Cụ thể: mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm ít nghiêm trọng chỉ đến 3 năm tù; mức Cđb nhất của khung hình phạt đối với tội Phạm nghiêm trọng là đến 7 năm tù; mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm rất nghiêm trọng là đến 15 năm tù và mức cao nhất của khung hình phat đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là trên 18 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Đây cũng lạ hình thức là phân loại tội phạm trong luật cơ bắn nhất, nó vừa là một biểu hiện của sự phận hoá trách nhiệm hình sự trong luật và vừa là cơ sở thống nhất cho các biểu hiện phân hóa trách nhiệm hình sự khác. Các quy định thể hiện sự phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật đều dựa trên sự phân loại tội phạm này như quy định về trách nhiệm hình sự của chuẩn bị phạm tội, quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Trong Bộ luật hình sự, tội phạm còn được phân thành các nhóm tội phạm khác nhau theo các nhóm quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Sự phân loại này là cơ sở cho việc xây dựng các chương thuộc Phần các tội phạm (phần riêng) của Bộ luật hình SỰ. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, khi mới ban hành, các tội phạm cụ thể được chia thành 12 nhóm khác nhau và được quy định trong 12 chương của Bộ luật hình sự. Từ khi được sửa đổi, bổ sung lần thứ tư năm 1997, Bộ luật hình sự năm 1985 chia các tội phạm cụ thể thành 13 nhóm khác nhau. Trong Bộ luật hình sự năm 2015, các tội phạm cụ thể được chia thành 14 nhóm tội khác nhau.

2. Cách thức phân loại tội phạm theo luật hình sự hiện hành

Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như trình bày trên nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Tội phạm bao gồm từ những hành vi có tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an ninh quốc gia như hành vi phản bội Tổ quốc (Điều 108 BLHS) đến những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội không lớn như hành vi chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 bộ luật hình sự năm 2015). Những hành vi phạm tội cụ thể không những có sự khác nhau về nguyên nhân, về tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại mà còn có sự khác nhau ngay ở tính chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác.

Tội phạm có chung dấu hiệu là tính nguy hiểm cho xã hội nhưng mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội không phải như nhau mà có sự khác nhau giữa các tội phạm cũng như giữa các trường hợp phạm tội của tội cụ thể. Chính do sự khác nhau như vậy mà vấn đề phân hoá và cá thể hoá hình phạt nói riêng cũng như TNHS nói chung đã được đặt ra và được coi là nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Trong đó, phân hoá TNHS là sự phân hoá trong luật còn cá thể hoá TNHS là sự phân hoá trong áp dụng. Trước hết đòi hỏi phải có sự phân hoá TNHS trong luật và sự phân hoá này là cơ sở để có thể cá thể hoá TNHS trong áp dụng. Thể hiện nguyên tắc phân hoá TNHS, luật hình sự Việt Nam phân tội phạm thành bốn nhóm tội phạm khác nhau: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.(1) Sự phân hoá thành bốn nhóm tội phạm như vậy vừa là biểu hiện cơ bản của sự phân hoá TNHS vừa là cơ sở thống nhất cho sự phân hoá TNHS trong BLHS. Sự phân hoá này là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng các khung hình phạt cho các tội phạm cụ thể cũng như cho việc xây dựng trong luật hình sự và trong các ngành luật khác có liên quan các quy định thể hiện sự phân hoá trong chông các loại tội phạm khác nhau. Đó là những căn cứ pháp lí thống nhất để các chủ thể áp dụng pháp luật thực hiện được nguyên tắc cá thể hoá TNHS khi áp dụng luật hình sự.

Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, các nhóm tội phạm được định nghĩa như sau:


“Điều 9. Phân loại tội phạm

1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:

a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;

c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;

d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này.”.

Theo định nghĩa này, các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi dấu hiệu về nội dung và dấu hiệu về hậu quả pháp lí. Nếu như tội phạm nói chung có dấu hiệu về nội dung là tính nguy hiểm cho xã hội và dấu hiệu về hậu quả pháp lí là tính phải chịu hình phạt thì các nhóm tội phạm cũng có những dấu hiệu đó, vì đều là tội phạm nhưng với những nội dung cụ thể khác nhau. Mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội được cụ thể hoá ở tội ít nghiêm trọng là không lớn; ở tội nghiêm trọng là lớn; ở tội rất nghiêm ừọng là rất lớn và ở tội đặc biệt nghiêm trọng là đặc biệt lớn. Tương ứng và phù hợp với bốn mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội đã được phân hoá như vậy cũng có bốn mức cao nhất của khung hình phạt: Đen 3 năm tù; đến 7 năm tù; đến 15 năm tù và trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Trong hai dấu hiệu phân biệt các nhóm tội phạm này với nhau, dấu hiệu về nội dung quyết định dấu hiệu về hậu quả pháp lí. Sự xác định dấu hiệu về hậu quả pháp lí thể hiện ở mức cao nhất của khung hình phạt chỉ là kết quả đánh giá của các nhà làm luật về sự cần thiết phải áp dụng các mức hình phạt khác nhau đối với những hành vi phạm tội có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Nhưng khi đã được xác định, mức cao nhất của khung hình phạt trở thành dấu hiệu có tính độc lập tương đối để phân biệt các nhóm tội phạm với nhau, không phụ thuộc vào mức hình phạt cụ thể được áp dụng.

Trong áp dụng luật hình sự, việc xác định tội phạm đã thực hiện thuộc loại tội phạm nào có ý nghĩa đối với việc áp dụng nhiều quy định của BLHS. Ví dụ: Khoản 2 Điều 12; Điều 27 V.V.. Ngoài ra, việc xác định này cũng có ý nghĩa đối với việc áp dụng một số quy định của các ngành luật có liên quan đến vấn đề TNHS như luật tố tụng hình sự...

Với cách hiểu, tội phạm chỉ là tội phạm do “người có năng lực trách nhiệm hình sự” thực hiện và trong trường hợp được luật quy định, pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người phạm tội đó thì quy định trên đây (khoản 1 Điều 9 BLHS) về phân loại tội phạm là đầy đủ và rõ ràng. Tuy nhiên, quy định này có thể được cho là chưa đầy đủ, chưa rõ ràng khi quan niệm còn có tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện và việc phân loại tại khoản 1 Điều 9 mới là việc phân loại tội phạm do “người có năng lực trách nhiệm hình sự” thực hiện. Từ đó, Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về việc phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện (khoản 2 Điều 9 BLHS) nhưng nội dung này không có gì khác so với nội dung tại khoản 1 Điều 9 BLHS.

3.NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ?

Điều 20. Sự kiện bất ngờ

Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 22. Phòng vệ chính đáng

1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.

Điều 23. Tình thế cấp thiết

1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.

2. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 24. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội

1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.

2. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.

4.Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ?

Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.

Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

5. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên?

Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.

Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật này.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến các quy định của luật hình sự về tội phạm, hình phạt Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được luật sư tư vấn luật hình sự trực tuyến qua tổng đài điện thoại. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc của Bạn.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh KHuê