Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm thương phiếu là gì?
- 2. Phân loại thương phiếu
- 2.1 Hối phiếu
- 2.2 Lệnh phiếu
- 3. Đặc điểm của thương phiếu
- 3.1 Đặc điểm
- 3.2 Ưu điểm của thương phiếu
- 3.3 Nhược điểm của thương phiếu
- 4. Khái niệm phát hành thương phiếu
- 5. Phát hành thương phiếu
- 5.1 Chủ thể phát hành thương phiếu
- 5.2 Hình thức phát hành thương phiếu
- 5.3 Kỳ hạn phát hành thương phiếu
- 5.4 Mục đích của việc phát hành thương phiếu
1. Khái niệm thương phiếu là gì?
Xét dưới hai góc độ:
- Theo nghĩa rộng thương phiếu là phiếu có thể chuyển nhượng được, dùng để xác nhận cho người cấm phiếu đố một yêu cầu chuyển tiền.
- Thương phiếu được hiểu theo nghĩa hẹp là hối phiếu thương mại, là những giấy nhận nợ do công ty có uy tín phát hành để vay vốn ngắn hạnh từ thị trường tài chính. Tiếp cận thương phiếu dưới góc độ này nhằm phân biệt thương phiếu với các loại hối phiếu khác như hối phiếu tài chính, hối phiếu ngân hàng.
Theo quy định của Luật thương mại năm 2005 thì thương phiếu là loại giấy tờ bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu. Tuy nhiên Luật thương mại hiện hành lại không đưa ra khái niệm cụ thể như thế nào là hối phiếu và như thế nào là lệnh phiếu. Thương phiếu thường được sử dụng trong quan hệ mua bán chịu các loại hàng hóa, dịch vụ (trong hoạt động tín dụng thương mại) và nó có giá trị thể hiện ở số tiền được ghi trên thương phiếu. Giá của thương phiếu trong chiết khấu được xác định trên cơ sở số tiền ghi trong thương phiếu. Căn cứ vào người lập thương phiếu, pháp luật phân định thương phiếu có thể phân chia thành hai loại là hối phiếu và lệnh phiếu.
2. Phân loại thương phiếu
Như đã phân tích ở trên, dựa trên cơ sở của người lập thương phiếu có thể được phân chia thành hai loại:
- Hối phiếu;
- Lệnh phiếu;
2.1 Hối phiếu
Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người ký phát lập ra và yêu cầu người bị ký phát thanh toán không có điều kiện với một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai của người thị hưởng.
2.2 Lệnh phiếu
Lênh phiếu là một loại chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không có điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. Dựa trên khái niệm và những đặc điểm được nêu trên của thương phiếu thì thương phiếu bao gồm 3 hình thức:
- Thương phiếu vô danh: Đây là loại thương phiếu không ghi rõ tên người thụ hưởng.
- Thương phiếu đích danh: Là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng.
- Thương phiếu ký danh: Là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng và có quyền chuyển nhượng.
3. Đặc điểm của thương phiếu
3.1 Đặc điểm
Thương phiếu có những đặc điểm như sau:
- Thương phiếu là một chứng chỉ có giá ghi nhận quan hệ tín dụng thương mại, quan hệ tín dụng ngân hàng, các thương phiếu được lập theo hình thức trình tự luật định, được coi là chứng từ có giá.
- Thời hạn thành toán của thương phiếu cụ thẻ do người thụ hưởng và người ký phát hành hoặc người phát hành xác định trong thời hạn cụ thể như sau:
+ Ngay sau khi xuất trình;
+ Sau một thời hạn nhất định kể từ ngày hối phiếu được chấp nhận;
+ Sau một thời hạn nhất định kể từ ngày ký phát hành;
+ Thanh toán vào một ngày xác định cụ thể.
Thời hạn thanh toán thương phiếu, , thời hạn truy đòi và thời hạn khởi kiện khi có tranh chấp về quan hệ thương phiếu được tính cả ngày nghỉ lễ và ngày nghỉ cuối tuần; nếu ngày cuối cùng của thời hạn trùng vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ cuối tuần thì được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo.
- Thương phiếu được phát hành trong một khoảng thời gian ngắn
Vì thương phiếu được coi là khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Nó xảy ra khi doanh nghiệp cần ngay 1 số tiền lớn để chi cho sản xuất. Người ký phát, người phát hành quy định phải là các doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và hợp tác xã. Tổ chức tín dụng không phải là người ký phát, người phát hành.
- Thương phiếu là công cụ tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia bao gồm các quyền: quyền đòi tiền của người thụ hưởng; nghĩa vụ trả tiền của người ký phát;....việc tham gia thương phiếu của các bên thể hiện qua hành vi ký phát hành, ký chuyển nhượng, ký bảo lãnh, ký chấp nhận trên thương phiếu.
3.2 Ưu điểm của thương phiếu
- Ưu điểm nổi bật nhất của thương phiếu trong hoạt động thương mại là thương phiếu được phát hành dựa trên cơ sở hàng hóa được sản xuất hoặc tiêu thụ, do đó cơ sở luôn có hàng hóa đối ứng.
- Ưu điểm thứ hai là nhờ vào tính chất lưu thông, thương phiếu đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm tiền mặt và góp phần ổn định tiền tệ.
- Nó còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ được tình trạng nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp.
- Sử dụng thương phiếu trong thương mại tạo điều kiện cho nhà sản xuất thực hiện nguyên tắc đảm bảo chất lượng hàng hóa, đảm bảo thời gian giao hàng và giúp người sản xuất và thương nhân tin tưởng nhau hơn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa.
- Việc mua bán diễn ra nhanh chóng giữa các bên không cần chờ khi có đủ tiền mặt
Phát hành thương phiếu là hành vi của người kí phát hoặc người phát hành cung ứng thương phiếu cho người thụ hưởng.
3.3 Nhược điểm của thương phiếu
Thương phiếu có những nhược điểm cụ thể như sau:
- Phát hành thương phiếu khống nhằm mục đích lừa đảo thông qua nghiệp vụ chiết khấu của ngân hàng. Phát hành không dựa trên mua bán giữa các bên mà do các bên tự thỏa thuận và đưa đến ngân hàng chiết khấu để lấy tiền. Chính điều này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.
- Với những nhược điểm sẵn có của tín dụng thương mại, khó có thể mở rộng quy mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu.
- Quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với nhau.
4. Khái niệm phát hành thương phiếu
Phát hành thương phiếu là việc lập, ký và chuyển giao thương phiếu lần đầu của người ký phát hành cho người thụ hưởng.
Doanh nghiệp được phát hành thương phiếu khi: Thương phiếu được phát hành trong 1 khoảng thời gian ngắn. Chúng được coi là khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Nó xảy ra khi doanh nghiệp cần ngay 1 số tiền lớn để chi cho sản xuất. Vậy tại sao họ lại không đi vay ngân hàng? Như các bạn đã biết, thủ tục của vay vốn trong ngân hàng rất lằng nhằng, tốn thời gian. Vì thế khi cầm được tiền trên tay có khi doanh nghiệp đã đi đến bước phá sản. Cho nên việc phát hành thương phiếu cực kỳ có lợi.
5. Phát hành thương phiếu
5.1 Chủ thể phát hành thương phiếu
Chủ thể có quyền phat hành thương phiếu là người lập và ký phát hành lệnh phiếu, cụ thể như sau:
- Người ký phát, người phát hành quy định phải là các doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và hợp tác xã.
- Tổ chức tín dụng không phải là người ký phát, người phát hành.
5.2 Hình thức phát hành thương phiếu
Theo quy định của pháp luật hiện hành thương phiếu được phát hành theo hình thức chiết khấu, tức là được bán với giá thấp hơn mệnh giá. Sự chênh lệch giữa giá mua và mệnh giá thương phiếu chính là thu nhập của người sở hữu thương phiếu.
Khi phát hành thương phiếu, thương phiếu phải được lập trên mẫu in sẵn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phải được lập bằng tiếng Việt. Đối với những trường hợp thương phiếu có mang yếu tố nước ngoài thì phải có cả tiếng Việt và tiếng Anh.
5.3 Kỳ hạn phát hành thương phiếu
Thời hạn thanh toán thương phiếu cụ thể do người thụ hưởng và người ký phát hoặc người phát hành xác định theo một trong các thời hạn sau đây:
- Ngay khi xuất trình.
- Sau một thời hạn nhất định kể từ ngày hối phiếu được chấp nhận.
- Sau một thời hạn nhất định kể từ ngày ký phát hành.
- Thanh toán vào một ngày xác định cụ thể.
Thời hạn thanh toán thương phiếu, thời hạn truy đòi và thời hạn khởi kiện khi có tranh chấp về quan hệ thương phiếu được tính cả ngày nghỉ lễ và ngày nghỉ cuối tuần; nếu ngày cuối cùng của thời hạn trùng vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ cuối tuần thì được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo.
5.4 Mục đích của việc phát hành thương phiếu
Thương phiếu được phát hành với mục đích như sau:
- Bổ sung nguồn vốn ngắn hạn cho các nhu cầu vốn lưu động có tính chất mùa vụ.
- Tài trợ bắc cầu: tài trợ bắc cầu được hiểu việc huy động vốn sở hữu hay nợ ngắn hạn trong thời gian 6 – 18 tháng của một đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng hay phát hành tư nhân dự kiến, nhằm “bắc cầu” cho công ty đến với đợt huy động vốn tiếp theo.
Từ năm 1954 – 1999, thương phiếu chỉ được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành hồi phiếu đòi tiền thương nhân hoặc ngân hàng nước ngoài mặc nhiên áp dụng Luật thống nhất về hối phiếu ULB-1930.
Với chính sách mở cửa, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới, mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta cũng được đổi mới. Trong hoạt động thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng hối phiếu trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, nhờ thu trong các hợp đồng mua bán ngoại thương.
Trong đó, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu sử dụng hối phiếu với tư cách là người bị ký phát khi nhập khẩu hàng hóa và là người thụ hưởng khi xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, còn kỳ phiếu chưa thấy được sử dụng.
Các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành giao dịch thông qua các ngân hàng thương mại. Tỷ lệ doanh số thanh toán có sử dụng thương phiếu (thanh toán bằng L/C và nhờ thu) chiếm đa phần, khoảng trên 80% tổng doanh số thanh toán quốc tế ở hầu hết các ngân hàng thương mại.
Trên thực tế, trong nội địa khi mua bán hàng trả tiền ngay của các doanh nghiệp thường sử dụng công cụ hóa đơn thương mại để đòi tiền. Còn khi bán hàng trả chậm, việc thu tiền trong tương lai thường được thực hiện dưới hình thức người bán trực tiếp ghi sổ nợ người mua và việc thu tiền về sau dựa trên cơ sở sự tin cậy làm đảm bảo.
Còn về kỳ phiếu, hiện tại thị trường kỳ phiếu chủ yếu do ngân hàng phát hành và chủ yếu phát hành kỳ phiếu với thời hạn ngắn nhằm huy động tiền gửi của người dân, ít dùng trong thương mại
Luật Minh Khuê