Mục lục bài viết
Định nghĩa Tặng cho tài sản có điều kiện.
Tăng cho tài sản có điều kiện là tặng cho tài sản trong đó bên tặng cho yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi được tặng cho. Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Nếu nghĩa vụ phải thực hiện trước khi tặng cho đã thực hiện thì bên tặng cho phải giao tài sản tặng cho hoặc phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Quy định của pháp luật về tặng cho tài sản có điều kiện
Về tặng cho tài sản có điều kiện. Điều 462 Bộ luật Dân sự (BLDS) quy định như sau:
“1) Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2) Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
3) Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ, thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Nội dung Điều 462 BLDS có một số vấn đề cần quan tâm là:
Vấn đề 1: Bên tặng cho tài sản và bên được tặng cho tài sản phải là người có năng lực pháp luật dân sự và có năng lực hành vi dân sự.
-Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự (quy định tại Điều 16 BLDS)
-Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả ngăn của cá nhân bằng hành vi của xác lập, thực hiện quyền nghĩa vụ dân sự (quy định tại Điều 19 BLDS).
-Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế trừ trường hợp BLDS hoặc Luật khác có liên quan có quy định khác (quy định tại Điều 86 BLDS).
Vấn đề 2: Bên tặng cho tài sản và bên được tặng cho tài sản hoàn toàn tự nguyện.
Vấn đề 3: Thực hiện nghĩa vụ là nghĩa vụ dân sự mà bên được tặng cho phải làm theo yêu cầu của bên tặng cho như là chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá thực hiện một công việc hoặc không thực hiện một công việc nhất định.
Vấn đề 4: Điều kiện tặng cho tài sản là những điều cần thiết mà bên tặng cho tài sản cần đạt được. Các điều kiện đó là nghĩa vụ mà bên được tặng cho tài sản phải thực hiện.
Vấn đề 5: Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Trong Điều 462 BLDS quy định về tặng cho tài sản có điều kiện không quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Tại khoản 2 của Điều 462 BLDS chỉ quy định “Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản, thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.” Quy định này là chung chung, không xác định được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và trước hợp có một bên vi phạm hợp đồng thì khó xác định thời điểm vi phạm hợp đồng và việc tặng cho tài sản có điều kiện có phải tuân theo quy định tại Điều 458 (về tặng cho động sản) và quy định tại Điều 459 BLDS (về tặng cho bất động sản) hay không cũng là vấn đề cần được quan tâm.
Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
Định nghĩa Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
Hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định tại Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận”.
Như vậy, về bản chất hợp đồng tặng cho tài sản chính là sự chuyển giao quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Dân sự 2015) tài sản cho người khác.
Điều kiện để tặng cho tài sản có điều kiện
Tặng cho tài sản có điều kiện là trường hợp rất hay gặp trong thực tiễn. Theo quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015, tặng cho tài sản có điều kiện là việc “bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật; không trái đạo đức xã hội”.
Điều kiện ở đây là bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ. Thời điểm phát sinh là trước hoặc sau khi tặng cho. Như vậy, có hai trường hợp:
Thứ nhất: Điều kiện phát sinh trước khi tặng cho. Theo đó, bên được tặng cho phải thực hiện nghĩa vụ trước thì hợp đồng tặng cho mới có hiệu lực.
Thứ hai: Hợp đồng tặng cho đã có hiệu lực. Bên được tặng cho thực hiện nghĩa vụ sau khi được tặng cho.
Vấn đề chúng ta cần hiểu ở đây bản chất của điều kiện là gì? Theo quy định tại Khoản 1, Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015, điều kiện được tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Ví dụ: A tặng cho B một mảnh đất với điều kiện B phải thực hiện đóng nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước mà A còn nợ đối với mảnh đất đó.
Hoặc A tặng cho B một căn nhà với điều kiện là B phải cho A sống cùng trong ngôi nhà đó.
Hậu quả pháp lý
Hậu quả pháp lý phát sinh nếu bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết được quy định cụ thể tại khoản 2, khoản 3 Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp hiểu sai bản chất của điều kiện được tặng cho nên dẫn đến trong điều khoản quy định về điều kiện tặng cho trái quy định pháp luật. Ví dụ như Ông A và Bà B muốn tặng cho con trai là anh C một mảnh đất với điều kiện Anh C phải đưa cho Ông A và Bà B số tiền 500.000.000 đồng. Về bản chất, đây là việc Ông A và Bà B chuyển nhượng cho Anh C cho nên phải lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mới đúng.
Hoặc có rất nhiều trường hợp bố mẹ muốn tặng cho con quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nhưng với điều kiện con không được chuyển nhượng, thế chấp, tặng cho người khác...Những điều kiện mà bên tặng cho tài sản đưa ra không đúng với quy định pháp luật vì nó hạn chế quyền năng của chủ sở hữu (quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt). Cho nên những điều kiện này không được đưa vào trong hợp đồng tặng cho tài sản.
Trong thực tế một số ngân hàng thường yêu cầu bên thế chấp phải xuất trình hợp đồng tặng cho tài sản (đối với tài sản có nguồn gốc nhận tặng cho) với lý do Ngân hàng xem xét trong Hợp đồng tặng cho tài sản đó bên tặng cho có đưa ra điều kiện là bên được tặng cho không được thế chấp hay không. Như vậy, bên tổ chức tín dụng đang hiểu sai về bản chất của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Khi chủ sở hữu thực hiện các quyền năng của mình khi trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng không bị giới hạn thì họ có toàn quyền thực hiện những việc mà pháp luật không cấm. Cho nên, trong những trường hợp này, bên tổ chức tín dụng không cần phải xác minh nguồn gốc bằng cách yêu cầu bên thế chấp xuất trình Hợp đồng tặng cho.
Một số vướng mắc
Quy định tặng cho tài sản và quy định tặng cho tài sản có điều kiện tại các Điều 457, Điều 462 BLDS hiện hành không phải là quy định mới. Vì các quy định này đã quy định tại các Điều 465, Điều 470 BLDS được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 (sau đây viết là BLDS năm 2005) mà quy định tại các Điều 457, Điều 462 BLDS hiện hành về nội dung là căn bản giữ nguyên quy định tại các Điều 465, Điều 470 BLDS năm 2005. Tuy có sửa đổi một vài từ, nhưng không ảnh hưởng đến nội dung chính của điều luật. Các vướng mắc bao gồm:
a) Đối với cụm từ “không được bán” ghi trong hợp đồng tặng cho tài sản là nhà ở, đất ở được hiểu như thế nào là đúng? Ví dụ ông A là bố (cha) của anh H. Ông A viết giấy cho anh H căn nhà xây 02 (hai) tầng trên diện tích đất 200m2. Trong Giấy cho nhà ở, ông A có ghi là: “cho nhà để ở, không được bán”. Nội dung ghi như thế này hiện đang có hai ý kiến khác nhau như sau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng cụm từ “không được bán” trong Giấy cho nhà là chấp nhận được. Vì không vi phạm điều cấm của Luật, không trái đạo đức xã hội.
Ý kiến thứ hai cho rằng từ “không được bán” trong Giấy cho nhà của ông A là ảnh hưởng đến quyền định đoạt của anh H. Vì theo quy định tại Điều 457 BLDS hiện hành thì hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng “chuyển quyền sở hữu”. Đối với căn nhà mà ông A đã làm hợp đồng cho anh H, khi anh H đã đăng ký quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà ở, đất ở mà ông A đã cho anh H thì kể từ thời điểm anh H đăng ký quyền sở hữu nhà ở thì anh H là chủ sở hữu căn nhà và là người được sử dụng đất ở đối với căn nhà mà ông A đã cho. Nói cách khác là, ông A đã chuyển quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở từ ông A sang anh H. Cũng kể từ thời điểm anh H đăng ký quyền sở hữu nhà ở mà ông A cho, thì anh H toàn quyền định đoạt căn nhà mà ông A đã cho anh H. Nếu có cụm từ: “không được bán” trong Giấy cho nhà ở thì cụm từ này đã hạn chế quyền định đoạt căn nhà đối với anh H cho đến khi ông thay đổi ý chí hoặc đến khi ông A chết. Như vậy, cụm từ: “không được bán” trở thành điều kiện tặng cho tài sản mà không rõ thuộc trường hợp khoản nào của Điều 462 BLDS. Cụ thể là:
Khoản 2 Điều 462 BLDS quy định về trường hợp người được nhận tài sản tặng cho phải thực hiện nghĩa vụ trước khi được nhận tài sản tặng cho.
Khoản 3 Điều 462 BLDS quy định về trường hợp người được nhận tài sản tặng cho phải thực hiện nghĩa vụ sau khi nhận tài sản tặng cho.
Còn khoản 1 Điều 462 BLDS quy định quyền được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ của người tặng cho đối với người được tặng cho.
Đây là một vướng mắc chưa có lời giải.
b) Tên gọi của hợp đồng như thế nào là đúng đối với trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất? Cụ thể như sau:
Điều 105 BLDS hiện hành quy định về tài sản như sau: “1) Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.”
“2) Tài sản bao gồm: bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Điều 115 BLDS hiện hành quy định về “quyền tài sản” như sau: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền bao g ồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và cá quyền tài sản khác”. Theo quy định này thì quyền sử dụng đất là “quyền tài sản” và theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS hiện hành mà chúng tôi trình bày ở trên thì “quyền tài sản” là tài sản. Do đó được nói (gọi) quyền sử dụng đất là tài sản.
Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai hiện hành (Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013) quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừ kế, tặng cho, thế chấp góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Theo quy định này, thì người sử dụng đất có quyền tặng cho quyền sử dụng đất và theo quy định tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai hiện hành thì việc tặng cho quyền sử dụng đất phải lập thành hợp đồng tặng cho và có công chứ hoặc chứng thực.
Vấn đề đặt ra là Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có thể viết là Hợp đồng tặng cho tài sản được không? Đây cũng là vướng mắc chưa có lời giải. Vì theo BLDS hiện hành thì gọi là hợp đồng tặng cho tài sản (quyền sử dụng đất là tài sản). Còn theo Luật Đất đai lại gọi là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Vậy thì gọi hợp đồng gì là đúng? Vướng mắc này liên quan đến thời hiệu khởi kiện thì có tranh chấp, thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng là 03 (ba) năm (Điều 429 BLDS hiện hành quy định). Còn thời hiệu tranh chấp quyền sử dụng đất không quy định. Do đó được hiểu là tranh chấp về quyền sử dụng đất không bị hạn chế về thời gian nên khởi khiện lúc nào do đương sự tự quyết định.