1. Sự ra đời của pháp luật chiếm hữu nô lệ
Pháp luật chiếm hữu nô lệ là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, xuất hiện sớm nhất vào khoảng 4000 năm trước Công nguyên tại Ai Cập cổ đại, 2000 năm trước Công nguyên ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Xét theo bản chất, vai trò giai cấp, thì pháp luật chiếm hữu nô lệ là công cụ để thể chế hóa, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của giai cấp chủ nô, đàn áo giai cấp nô lệ. Đặc điểm của pháp luật chiếm hữu nô lệ thể hiện ở những nhiệm vụ cơ bản của nó như bảo vệ, củng cố chế độ sở hữu tư nhân của giai cấp chủ nô về tư liệu sản xuất và nô lệ; chế độ bất bình đẳng giữa chủ nô và nô lệ, xem nô lệ chỉ là một thứ công cụ biết nói; quyền lực tuyệt đối của người chồng, người cha trong gia đình; quyền lực của tôn giáo... Pháp luật chiếm hữu nô lệ cũng có những đặc điểm giống pháp luật phong kiến như chịu ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng tôn giáo, có các hình phạt dã man, tàn bạo.
Pháp luật chiếm hữu nô lệ có các bộ luật nổi tiếng như Bộ luật Hammurapi thế kỉ XVIII trước Công nguyên của nhà nước Babylon, Bộ luật Manu thế kỉ II trước Công nguyên của Ấn Độ, Bộ luật Dracon năm 621 trước Công nguyên của Hi Lạp cổ đại, Bộ luật XII bảng thế kỉ V trước Công nguyên của nhà nước La Mã cổ đại.
2. Phân tích về kiểu pháp luật chủ nô
Pháp luật chủ nô là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử, ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước chủ nô. Kiểu pháp luật này được xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ và mâu thuẫn đối kháng gay gắt giữa chủ nô với nô lệ. Thông qua các thư tịch cổ, đặc biệt thông qua các quy định trong các bộ luật nổi tiếng còn tồn tại như Bộ luật Hammourabi của Babilon cổ đại, Luật Dracon của Hy Lạp cổ đại, Bộ luật Manou của Ấn Độ cổ đại và Bộ luật 12 bảng của La Mã cổ đại..., có thể thấy, pháp luật chủ nô có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật chủ nô tạo cơ sở pháp lí cho việc củng cố và bảo vệ quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, hợp pháp hoá chế độ bóc lột của chủ nô đối với nô lệ
Pháp luật chủ nô ghi nhận quyền tư hữu tuyệt đối và vô giới hạn của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ, coi nô lệ chỉ là “công cụ”, là “tài sản biết nói” của chủ, chủ nô có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với nô lệ như đối với các tài sản khác, có quyền chiếm đoạt toàn bộ kết quả lao động, có quyền đánh đập, chửi mắng, mua, bán, tặng, cho thậm chí giết chết nô lệ, khi chủ nô chết, nô lệ có thể bị chôn theo chủ, kể cả chôn sống. Giá của nô lệ rất rẻ mạt, chẳng hạn ở Trung Quốc, năm nô lệ mới đổi được một con ngựa và một cuộn tơ. Mọi biểu hiện chống đối chủ nô, giúp nô lệ bỏ trốn, xâm phạm sở hữu của chủ nô, kể cả những trường hợp ưộm cắp vặt đều bị trừng phạt nghiêm khắc bằng những hình phạt hết sức dã man như cắt tai, xẻo mũi, chặt chân tay, giết chết.
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định nhiều biện pháp để biến người tự do thành nô lệ. Chẳng hạn, pháp luật thừa nhận chế độ cho vay nặng lãi, nếu con nợ không có khả năng trả nợ khi đến hạn thì chủ nợ có thể bắt bản thân con nợ hoặc vợ con của họ làm nô lệ. Ngoài ra, những người phạm tội cũng có thể bị bắt làm nô lệ thay cho việc áp dụng các hình phạt khác.
Thứ hai, pháp luật chủ nô quy định một hệ thống hình phạt và cách thi hành hình phạt hết sức dã man, tàn bạo
Để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp chủ nô thông qua nhà nước ban hành các quy định pháp luật hết sức dã man. Các tội dù nặng hay nhẹ đều bị áp dụng các hình phạt có tính chất nhục hình với mục đích làm cho tội nhân đau đớn về mặt thể xác, sợ hãi về mặt tinh thần để họ không dám chống đối. Hình phạt tử hinh được quy định và áp dụng khá phổ biến với cách thi hành hình phạt rất dã man, tàn bạo như tùng xẻo, treo cổ, cho vào vạc dầu sôi, thiêu sống hay chôn sống... Những hình phạt khác cũng rất dã man như chặt tay, chặt chân, cắt lưỡi, thích chữ lên mặt... Điều này làm cho pháp luật chủ nô trở thành kiểu pháp luật vô nhân đạo nhất trong lịch sử.
Thứ ba, pháp luật chủ nô ghi nhận và củng cố tình trạng bất bình đẳng trong xã hội và trong gia đình
Theo quy định của pháp luật chủ nô, quan hệ giữa chủ nô với nô lệ là quan hệ bất bình đẳng tuyệt đối, chủ nô có toàn quyền, nô lệ chỉ có nghĩa vụ. Ở nhiều nước, pháp luật chủ nô còn ghi nhận tình trạng bất bình đẳng giữa các đẳng cấp trong xã hội thông qua việc phân chia xã hội thành nhiều đẳng cấp với những quyền, nghĩa vụ pháp lí khác nhau. Pháp luật chủ nô còn ghi nhận và củng cố tình trạng bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, bảo vệ sự thống trị tuyệt đối của người chồng, người cha trong gia đình. Chẳng hạn, Bộ luật Manou quy định người vợ là do được người chồng mua về, tất cả của hồi môn của vợ trở thành sở hữu của chồng. Bộ luật 12 bảng của La Mẫ thừa nhận tài sản của gia đình do người chồng quản lí, con gái lấy chồng phải phụ thuộc vào chồng, người cha có quyền bán con làm nô lệ...
Thứ tư, pháp luật chủ nô có tính tản mạn, thiếu thống nhất
Do trình độ phát triển của xã hội thấp, nhận thức của con người còn hạn chế nên các nhà lập pháp không xác định được rõ quan hệ xã hội nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật, quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của các tín điều tôn giáo... Vì thế, nhiều tư tưởng tôn giáo được thể chế hoá thành pháp luật, nhiều tín điều tôn giáo được thừa nhận, nâng lên thành pháp luật. Pháp luật chủ nô chưa có sự phân chia thành từng lĩnh vực hay từng ngành luật một cách rõ ràng, các bộ luật trong thời gian này đều là những bộ luật tổng hợp, điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhiều lĩnh vực như dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình, tố tụng... Các biện pháp cưỡng chế được quy định trong các bộ luật này đều là hình phạt.
Pháp luật chủ nô được hình thành chủ yếu bằng con đường thừa nhận các phong tục tập quán, quy tắc đạo đức và tín điều tôn giáo trong xã hội. Điều này thể hiện khá rổ qua các quy định trong Bộ luật Hammourabi, Luật Dracon, Luật 12 bảng của La Mã, Bộ luật Manou... Trong khi đó, tôn giáo, tín ngưỡng giai đoạn này khá phức tạp, trong xã hội có nhiều loại tôn giáo khác nhau, phong tục tập quán cũng rất khác nhau giữa các vùng, miền, địa phương... làm cho pháp luật chủ nô có tính tản mạn, không thống nhất.
Luật Minh Khuê (biên tập)