1. Biện pháp ngăn chặn là gì?

Biện pháp ngăn chặn được hiểu là các biện pháp mang tính chất cưỡng chế về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, để ngăn chặn những hành vi nguy hiểm của họ trong xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

Biện pháp ngăn chặn được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự gồm: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm.

Việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự nhằm các mục đích sau:

+ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội;

+ Bảo đảm thi hành án.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự có quyền áp dụng một trong số các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật

2. Các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS 2015

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 biện pháp ngăn chặn bao gồm: có 8 biện pháp.

- Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110)

- Biện pháp bắt người được áp dụng trong các trường hợp bắt người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can để tạm giam, bắt bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ (các điều 111, 112, 113)

- Biện pháp tạm giữ; biện pháp tạm giam (các điều 117, 119).

- Biện pháp bảo lĩnh (Điều 121)

- Biện pháp đặt tiền để bảo đảm (Điều 122)

- Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 123)

- Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124)

3. Các trường hợp hủy bỏ biện pháp ngăn chặn

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 125 BLTTHS 2015, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng đối với người bị buộc tội và không được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác khi có một trong các quy định sau:

- Quyết định không khởi tố vụ án hình sự: Nghĩa là biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (gọi là giai đoạn tiền khởi tố). Biện pháp ngăn chặn mà người bị áp dụng trong giai đoạn này là có thể là biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Đối tượng bị áp dụng phải là người chưa bị khởi tố mà có cơ sở nghi vấn buộc tội, nhưng sau đó khi có quyết định không khởi tố vụ án thì cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định hủy biện pháp ngăn chặn này.

- Quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án: Trường hợp này được hiểu là vụ án phải được chấm dứt các hoạt động tố tụng. biện pháp ngăn chặn (tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh) nếu đang được áp dụng đối với bị can, bị cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định hủy biện pháp ngăn chặn ngay.

- Quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can: Về cơ bản nội dung giống như trường hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Nhưng có điểm khác biệt là hoạt động tố tụng đối với bị can được đình chỉ phải chấm dứt, biện pháp ngăn chặn đối với bị can được đình chỉ phải được hủy bỏ ngay. Còn các bị can khác trong vụ án vẫn tiến hành tố tụng và áp dụng biện pháp ngăn chặn.

- Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ: Thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thuộc về Tòa án và đối tượng áp dụng là bị cáo, người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử nhưng phải được Hội đồng xét xử tuyên bằng bản án là không phạm tội như Viện kiểm sát truy tố, hoặc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thì biện pháp ngăn chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ ngay.

- Cuối cùng là trường hợp xét thấy không cần thiết.

4. Biện pháp tạm giữ theo quy định của BLTTHS 2015

- Đối tượng bị áp dụng:

Khoản 1 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định các đối tượng có thể bị tạm giữ như sau: Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

Thứ nhất, người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp. Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp là người mà khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Ngươi mà người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; Hoặc Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Không phải mọi trường hợp bị bắt trong trường hợp khẩn cấp đều áp dụng biện pháp tạm giữ. Biện pháp này chỉ áp dụng khi xét thấy cần thiết.

Thứ hai, người phạm tội quả tang. Người phạm tội quả tang là người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Việc phát hiện tội phạm đang thực hiện; ngay sau khi thực hiện tội phạm và việc đuổi bắt phải kế tục, liên tiếp về mặt thời gian.

Thứ ba, người phạm tội tự thú. Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình. Việc khai báo thực hiện trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện.

Thứ tư, người phạm tội đầu thú. Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình.

Thứ năm, người phạm tội bị bắt theo quyết định truy nã.

Người bị tạm giữ bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ; gia hạn tạm giữ.

- Thẩm quyền áp dụng:

Theo khoản 2 Điều 117 BLTTHS 2015, những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định tạm giữ.

Như vậy, những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người là những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, người chỉ huy tàu bay, tàu thủy khi tàu đã rời khỏi sân bay, bến cảng không có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, bởi lẽ, theo quy định tại khoản 4 Điều 110, sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, người chỉ huy tàu bay, tàu thủy phải giải ngay đến Cơ quan điều tra nơi đầu tiên cập bến mà không hề đề cập đến việc họ có quyền ra quyết định tạm giữ trong thời hạn 12 tháng như đối với Cơ quan điều tra, Cơ quan có nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra.

- Thủ tục tạm giữ:

Điều 117 BLTTHS 2015 quy định việc tạm giữ phải có quyết định, quyết định tạm giữ không cần có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, tuy nhiên, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định phải gửi quyết định tạm giữ và các tài liệu kèm theo cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát. Nếu thấy quyết định không có căn cứ hoặc không cần thiết, VKS có quyền hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Quyết định tạm giữ phải ghi rõ giờ, ngày bắt đầu và giờ ngày kết thúc tạm giữ.

5. Thời hạn tạm giữ (Điều 118 BLTTHS 2015)

Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.

Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.

Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.

6. Điểm mới về quy định biện pháp tạm giữ

Tạm giữ và thời hạn tạm giữ (Điều 117 và Điều 118 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).

Biện pháp ngăn chặn này về cơ bản vẫn kế thừa quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, ngoại trừ một số thay đổi, bổ sung sau đây:

- Đối tượng áp dụng là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thay cho người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp;

- Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày được tính kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú;

- Trường hợp Viện kiểm sát gia hạn thời hạn tạm giữ nhưng khi hết thời hạn này vẫn không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)