1. Biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.

Theo Khoản 1 Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định: Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.

2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Điều 2 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC quy định về những nguyên tắc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm như sau:

Điều 2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

1. Tuân thủ Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

2. Tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục, điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

3. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải cân nhắc hiệu quả, tính khả thi của việc thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

4. Việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm được thực hiện theo đúng quy trình và có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng với Kho bạc nhà nước, cơ quan tài chính trong Quân đội; bảo đảm quyền được trả lại tiền của bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ cam đoan.

Nguyên tắc 1: Việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm phải tuân thủ Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

Biện pháp đặt tiền để bảo đảm là việc bị can, bị cáo hoặc người thân thích của họ đặt một khoản tiền để bị can, bị cáo được tại ngoại không phải bị áp dụng biện pháp tạm giam. 

Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC nêu cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án sẽ quyết định mức tiền cụ thể mà bị can, bị cáo phải đặt để bảo đảm, nhưng không dưới 30 triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 100 triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng; 200 triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 300 triệu đồng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Viện tuân thủ Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự và các quy định của pháp luật khác có liên quan góp phần bảo đảm quyền và lợi ích của bị can, bị cáo và những người thân thích. Đồng thời, tạo sự minh bạch trong áp dụng pháp luật, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền.

Nguyên tắc 2: Việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm phải tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục, điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đảm bảo:

- Đề nghị đặt tiền để bảo đảm: Bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền đề nghị bằng văn bản với cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án về việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo.

- Thông bảo về việc cho đặt tiền để bảo đảm: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn đề nghị và các giấy tờ có liên quan, cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án có trách nhiệm xem xét, nếu thấy có đủ điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm thì ra Thông báo cho bị can, bị cáo, người thân thích hoặc người đại diện của bị can, bị cáo để làm thủ tục đặt tiền để bảo đảm. Trường hợp thấy không đủ điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo thì phải thông báo bằng văn bản cho người đề nghị biết trong đó nêu rõ lý do.

- Thực hiện việc đặt tiền để bảo đảm: 

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Thông báo về việc cho đặt tiền để bảo đảm, người được bị can, bị cáo ủy quyền, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất phải hoàn thành việc đặt tiền. Trong trường hợp vì trở ngại khách quan hoặc lý do bất khả kháng mà không thể hoàn thành việc đặt tiền để bảo đảm đúng hạn thì thời hạn này được tính lại kể từ khi hết trở ngại khách quan hoặc lý do bất khả kháng không còn nữa.

Điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm:

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình trạng tài sản, nhân thân của bị can, bị cáo; bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu, tố giác đồng phạm, có tình tiết giảm nhẹ (như tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại...); việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

Nguyên tắc 3: Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải cân nhắc hiệu quả, tính khả thi của việc thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

Trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn nhẹ hơn tạm giam, người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng có cân nhắc, lựa chọn để có phương án áp dụng “hay hơn”. Việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm có thể khắc phục được một số hạn chế của biện pháp tạm giam như ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần của bị can, bị cáo, thậm chí tính mạng có thể bị xâm phạm. Mặt khác, khi bị tạm giam, bị can, bị cáo còn bị ảnh hưởng nặng nề đến cả công việc, thu nhập trong trường hợp cá nhân họ và cả những người sống phụ thuộc vào thu nhập của họ. Việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm sẽ giảm áp lực trong công tác quản lý tại các cơ sở giam giữ. Tuy nhiên, do được tại ngoại nên sẽ không tránh khỏi tihf trạng bị can, bị cáo có thể bỏ trốn, tiếp tục phạm tội....

Do vậy cần cân nhắc hiệu quả, tính khả thi của việc thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

Nguyên tắc 4: Việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm được thực hiện theo đúng quy trình và có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng với Kho bạc nhà nước, cơ quan tài chính trong Quân đội; bảo đảm quyền được trả lại tiền của bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ cam đoan.

Bị can, bị cáo bị bắt tạm giam về tội đã phạm trước khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hoặc tiếp tục phạm tội hoặc Bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì số tiền đã đặt để bảo đảm bị tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

3. Thẩm quyền áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Pháp luật tố tụng hình sự quy định chỉ có những người đứng đầu trong các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cấp phó được cấp trưởng ủy quyền mới có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;  Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp. Họ không được ủy quyền việc quyết định này cho cấp dưới (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán) thực hiện. 

Ngoài ra, trong trường hợp trước khi mở phiên tòa thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa hoặc trong trường hợp tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp này.

4. Thời hạn áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Thời hạn đặt tiền được tính theo thời hạn điều tra, truy tố, xét xử. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù được tính đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Trong trường hợp gia hạn điều tra, truy tố, xét xử, hoãn thi hành án phạt tù thì thời hạn đặt tiền để bảo đảm được tính theo thời gian gia hạn điều tra, truy tố, xét xử, hoãn thi hành án phạt tù.

Mặc dù pháp luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể về thời hạn đặt tiền trong trường hợp bị can, bị cáo đã bị tạm giam trước khi cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm, tuy nhiên trong trường hợp này thời hạn đặt tiền vẫn được tính từ khi ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền và không quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử cũng như thời hạn gia hạn điều tra, truy tố, xét xử, hoãn thi hành án phạt tù. Quy định mới này làm rõ các vướng mắc về thời hạn áp dụng biện pháp này mà trước đây được cho là mang tính chung chung, khó hiểu, khó áp dụng.

5. Hủy bỏ việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Thực hiện trong các trường hợp sau đây: Khi có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can; Bị can, bị cáo bị bắt về tội đã phạm trước khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hoặc tiếp tục phạm tội; Bị can, bị cáo chết…

Việc hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm cũng như các trường hợp tịch thu, nộp ngân sách nhà nước tiền đã đặt để bảo đảm thì thực hiện như việc tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với vật chứng vụ án theo quy định của pháp luật.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 19006162 hoặc liên hệ email: Lienhe@luatminhkhue.vn để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Trân trọng./.