1. Cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước Nam chọn lọc hay nhất - Mẫu số 1

Lòng yêu nước là mạch nguồn cảm xúc mãnh liệt chảy suốt trong văn học Việt Nam từ hàng ngàn năm qua. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, tinh thần yêu nước được thể hiện qua những khía cạnh độc đáo và phong phú. Trong đó, bài thơ “Sông núi nước Nam” tương truyền do Lý Thường Kiệt sáng tác trong cuộc kháng chiến chống Tống, được xem như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm này khẳng định mạnh mẽ chủ quyền và quyết tâm bảo vệ đất nước trước mọi kẻ thù xâm lược.

Có nhiều câu chuyện kể về sự ra đời của bài thơ, nhưng nổi bật nhất là truyền thuyết về năm 1077 khi quân Tống xâm lược nước ta. Lý Thường Kiệt dẫn quân chặn giặc trên sông Như Nguyệt và một đêm nghe thấy tiếng ngâm bài thơ này từ đền thờ thần sông. Chính sự kết hợp giữa niềm tin tâm linh và ý chí chiến đấu đã làm cho bài thơ thêm phần hào hùng và thiêng liêng.

Hai câu thơ đầu đã khẳng định chân lí về độc lập và chủ quyền:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.”

Trong quan niệm thời bấy giờ, “đế” đại diện cho quốc gia, nhân dân. Vì thế, ý thơ cần được hiểu rằng sông núi nước Nam là của người dân nước Nam. Chân lí này, tuy đơn giản và hiển nhiên, đã được bảo vệ và khẳng định qua biết bao máu, mồ hôi và nước mắt của cha ông ta. Đất nước này là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu thơ đầu là lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc, thể hiện niềm tự hào và tự tôn dân tộc. Xưa kia, các nước phương Bắc coi thường và miệt thị nước ta, xem Đại Việt như một nước chư hầu, vua chỉ là vương hầu dưới quyền cai trị của chúng. Bằng cách khẳng định “Nam quốc”, tác giả đã khẳng định nước ta là một quốc gia độc lập, có chủ quyền riêng, không chịu phụ thuộc bởi bất cứ thế lực nào, và vua ta là những vị đế vương anh minh, tài giỏi.

Chân lí độc lập và chủ quyền của dân tộc không chỉ được minh chứng bằng lí lẽ thực tiễn mà còn được khẳng định bởi “thiên thư”. Hai chữ “tiệt nhiên” vang lên mạnh mẽ, đanh thép, không ai có thể phản bác. Sông núi nước Nam đã được định phận ở sách trời, có thần linh chứng giám, điều này là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Kẻ nào dám xâm phạm sẽ bị trừng phạt thích đáng. Câu thơ mang màu sắc thần linh, làm tăng thêm giá trị thiêng liêng của chân lí về độc lập và chủ quyền.

Sau lời khẳng định hùng hồn, tác giả đưa ra lời cảnh cáo đanh thép đối với kẻ thù:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”

Câu hỏi vang lên mạnh mẽ, dứt khoát, hướng tới bọn giặc xâm lược. Tác giả coi chúng là “nghịch lỗ”, phân định rõ ràng chính nghĩa và phi nghĩa. Ta chiến đấu vì chính nghĩa, ắt sẽ chiến thắng, còn giặc dữ phi nghĩa sẽ nhận lấy hậu quả xứng đáng. Câu thơ thể hiện rõ thái độ giận dữ, uất hận của tác giả đối với kẻ thù ngang tàng. Ý chí chiến đấu càng cao, câu thơ cuối cùng như một cú đánh mạnh mẽ:

“Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”

Tác giả gọi quân giặc là “chúng mày” với thái độ coi thường, khinh bỉ, thể hiện quyết tâm đánh bại giặc và niềm tin sắt đá vào sự thất bại của kẻ thù. Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, hàm súc cùng giọng điệu đanh thép, bài thơ có ý nghĩa lớn lao trong việc khích lệ tinh thần chiến đấu của binh sĩ và cảnh cáo đanh thép đối với kẻ thù.

“Sông núi nước Nam” là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam, thấm đẫm cảm hứng yêu nước. Tinh thần yêu nước và khẳng định chủ quyền đã được mở rộng và phát triển trong hai áng văn lớn là “Bình Ngô đại cáo” và “Tuyên ngôn độc lập”, khẳng định vị thế của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

 

2. Cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước Nam chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2

Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt xuất của văn học thời Lý - Trần, phản ánh hào khí thời đại và cảm xúc dạt dào của muôn vạn trái tim người Việt. Tác phẩm này tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng, và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến tự chủ.

Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Bài thơ được dịch như sau:

Nguyên tác:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Dịch thơ (Theo Lê Thước - Nam Trân):

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng bay nhất định phải tan vỡ

Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lý, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ này đã vang lên. Vì vậy, người ta gọi bài thơ này là thơ thần. Dù là do thần linh hay con người sáng tác, bài thơ vẫn thể hiện khát vọng và khí phách của Đại Việt.

Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được thể hiện qua một mạch lập luận chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Câu thơ bảy tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà - Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thơ rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của các triều đại phong kiến Trung Quốc, chỉ có Bắc đế, không thể có Nam đế. Hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì muôn dân. Vì thế, khi xâm lược nước Nam, chúng ngang nhiên biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành lại được hôm nay thấm đẫm máu xương của cha ông suốt hơn một ngàn năm. Và nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe dọa bởi tư tưởng ngông cuồng kia.

Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà còn là vị thế của nước Nam, đất nước nhỏ bé nhưng độc lập, sánh vai cùng một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Đất nước ấy có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, cai quản một vùng đất riêng lập nên giang sơn xã tắc của mình: 

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi không phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do Trời định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu trong sách trời: Ai có thể thay đổi được?

Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.

Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược: Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo (nghịch lỗ), lẽ nào Trời đất dung tha. Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư.

Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận - một đặc điểm của thơ ca thời Lý - Trần, khiến người đọc rưng rưng! Và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về, ghi dấu trong lòng mỗi người con đất Việt.

 

3. Cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước Nam chọn lọc hay nhất - Mẫu số 3

Bài thơ "Nam quốc sơn hà" ra đời trong bối cảnh lịch sử đánh đuổi giặc Tống xâm lược, thể hiện ý chí kiên cường và sức mạnh bất khuất của dân tộc ta. Từng câu thơ hùng hồn ẩn chứa tinh thần yêu nước mãnh liệt và chí khí anh hùng không gì khuất phục được.

Dân tộc Việt Nam luôn khát khao tự chủ, độc lập và không ngừng đấu tranh, dù phải hi sinh xương máu vì tự do và chủ quyền. Tương truyền, bài thơ này do Lí Thường Kiệt (tên thật là Ngô Tuấn, tên tự là Thường Kiệt) sáng tác, sau này được vua ban quốc tính lấy họ Lí, người làng An Xá, nay thuộc Quảng Đức, phía nam thành Thăng Long.

"Nam quốc sơn hà" là tác phẩm văn học mang chức năng lễ nghi và có vai trò đặc biệt trong lịch sử. Năm 1077, Lí Thường Kiệt chỉ huy quân Đại Việt đánh tan hàng chục vạn quân Tống tại phòng tuyến sông Như Nguyệt. Truyền thuyết kể rằng bài thơ đã khích lệ tinh thần yêu nước của quân dân, vì vậy còn được gọi là "bài thơ Thần".

Trong "Nam quốc sơn hà", có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc hào sảng, chất thơ với luận lý chặt chẽ, đanh thép đầy tinh thần chiến đấu. Hai câu đầu của bài thơ vang lên dõng dạc, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc và ý thức sâu sắc về độc lập, chủ quyền:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

(Sông núi nước Nam vua Nam ở, Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời).

Cần hiểu rõ một số từ quan trọng để thấu tỏ ý tứ sâu sắc của tác giả. Từ "đế" (trong câu "Nam đế cư") nếu dịch là vua thì đúng nghĩa đen nhưng chưa đủ tầm vóc mà câu thơ muốn truyền đạt. Trong tiếng Hán, từ "đế" và từ "vương" đều dịch sang tiếng Việt là vua, nhưng "đế" và "vương" lại mang nghĩa khác nhau. "Vương" thường chỉ vua chư hầu, còn "đế" là vua của một quốc gia độc lập, ngang hàng với các quốc gia khác.

Từ "cư" không chỉ có nghĩa là ở mà còn mang ý nghĩa gánh vác, thể hiện trách nhiệm và lý tưởng của vua Lí Thường Kiệt đối với nhân dân và đất nước. Câu thơ thứ hai mang sắc thái cảm xúc mạnh mẽ, hàm ý sâu sắc tụ trong từ "phận". Từ "phận" gắn với quan niệm thần bí của người xưa, chỉ vùng sao trời ứng hợp với các khu vực trên mặt đất.

Cổ nhân Trung Quốc có câu: "Trời thì có các vì sao, đất thì có các châu vực". Vua Quang Trung cũng từng nói: "Trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng". Phương Nam có Nam đế làm chủ, cũng như phương Bắc có Bắc đế làm chủ.

Độc lập, tự chủ là khát vọng ngàn đời của dân tộc ta, được thể hiện một cách sâu sắc, đầy trí tuệ. Đến câu thơ thứ ba, mạch thơ chuyển sang luận tội kẻ thù, những kẻ làm trái đạo trời, vi phạm chân lý:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Hỏi "Như hà" (cớ sao?) không cần sự trả lời, chỉ để khẳng định lẽ tất yếu: kẻ xâm lược sẽ tự chuốc lấy bại vong. Lôgic đơn giản mà chặt chẽ ấy đã tạo nên sức mạnh của bài thơ. Từng câu từng chữ của bài thơ không chỉ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền, mà còn là lời cảnh báo mạnh mẽ gửi đến kẻ thù xâm lược, khẳng định tinh thần bất khuất và ý chí kiên cường của dân tộc Đại Việt.