Mục lục bài viết
1. Cuộc đời của Marshall
Marshall sinh ra ở London. Cha của anh là một thủ quỹ ngân hàng và sùng đạo Tin Lành. Marshall lớn lên ở Clapham và được giáo dục tại Trường Merchant Taylors và Trường Cao đẳng St John, Cambridge, nơi ông thể hiện năng khiếu về toán học, đạt thứ hạng Nhì Wrangler trong Bộ ba Toán học Cambridge năm 1865. Marshall trải qua một cuộc khủng hoảng tinh thần khiến ông từ bỏ vật lý và chuyển sang triết học. Ông bắt đầu với siêu hình học, cụ thể là "nền tảng triết học của tri thức, đặc biệt là liên quan đến thần học". Siêu hình học đã dẫn Marshall đến với đạo đức học, cụ thể là một người theo thuyết Sidgwick Phiên bản của thuyết vị lợi; đến lượt mình, đạo đức đã đưa ông đến với kinh tế học, bởi vì kinh tế học đóng một vai trò thiết yếu trong việc cung cấp những điều kiện tiên quyết cho sự cải tiến của giai cấp công nhân.
Ông thấy rằng nhiệm vụ của kinh tế học là cải thiện điều kiện vật chất, nhưng sự cải thiện đó sẽ xảy ra, Marshall tin rằng, chỉ liên quan đến các lực lượng chính trị và xã hội. Mối quan tâm của ông đối với chủ nghĩa Georgism, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội, công đoàn, giáo dục phụ nữ, nghèo đói và tiến bộ phản ánh ảnh hưởng của triết lý xã hội ban đầu đối với các hoạt động và tác phẩm sau này của ông.
Marshall được bầu vào năm 1865 để học bổng tại trường St John's College tại Cambridge, và trở thành giảng viên về khoa học đạo đức vào năm 1868. Năm 1885, ông trở thành giáo sư kinh tế chính trị tại Cambridge, nơi ông ở lại cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1908. Trong nhiều năm, ông đã tương tác với nhiều nhà tư tưởng người Anh bao gồm Henry Sidgwick, WK Clifford, Benjamin Jowett, William Stanley Jevons, Francis Ysidro Edgeworth, John Neville Keynes và John Maynard Keynes. Marshall thành lập Trường Cambridge, đặc biệt chú ý đến việc tăng lợi nhuận, lý thuyết về công ty và kinh tế học phúc lợi; sau khi các vị trí lãnh đạo nghỉ hưu của ông ấy chuyển sang Arthur Cecil Pigou và John Maynard Keynes.
2. Kinh tế học
Trước tiên, Marshall xem khoa học kinh tế vào năm 1890 đơn thuần là sự mở rộng - thực ra là sự tiếp nối - những quan điểm được Adam Smith tán thành. Ông cho rằng kinh tế học cổ Điển chỉ là sự hoàn thiện hay phiên bản hiện đại của các học thuyết cổ Điển trước đây. Một thời đại mới cùng nhiều vấn đề mới thay đổi tầm quan trọng của phân tích kinh tế, nhưng Marshall nghĩ các phân tích tương đối đơn giản của Ricardo và Mill đều được nghiên cứu cẩn thận. Sự thay đổi tầm quan trọng là sự mở rộng ngành kinh tế vi mô trong khoa học kinh tế diễn ra trong thời điểm. Nhưng Marshall nghiên cứu khoa học kinh tế như thế nào?
Không biết bao lần trong suốt quyển Principles, Marshall đều giải thích nhận thức của ông về khoa học kinh tế. Trong khi định nghĩa phạm vi và mục đích quyển sách, ông nhận xét trong lời tựa trong lần xuất bản đầu tiên như sau:
“Cùng với truyền thống Anh, cho rằng chức năng của khoa học là phải thu thập, sắp xếp và phân tích các vấn đề kinh tế, và phải áp dụng kiến thức thu thập từ quan sát và kinh nghiệm, để xác định những gì có thể là tác dụng trực tiếp và sau cùng của nhiều nhóm nguyên nhân khác nhau, và cho rằng các Định luật kinh tế học là phát biểu khuynh hướng diễn đạt trong thể trần thuật, chứ không phải là quy tắc luân lý ở thể mệnh lệnh. Định luật và lập luận kinh tế thực ra đơn thuần là một bộ phận nguyên liệu mà Lương tâm và Lẽ phải thông thường phải tính đến nhằm giải quyết vấn đề thực tế, và đặt ra các quy tắc có thể xem là hướng đẫn trong đời sống”. (Principles, các trang 5-ổ/1’.
Lúc ấy, phương pháp của Marshall chủ yếu dựa vào lẽ phải thông thường được tinh lọc. Khoa học kinh tế không gì khác ngoài việc phát triển lẽ phải được tinh lọc ấy bằng phân tích và lập luận hữu hiệu. Thực tế và lịch sử là điều chính yếu đối với nhà lý thuyết kinh tế, nhưng chính Marshall nhận xét, “Chính thực tế không dạy gì cả”. Tính hợp thức và khuynh hướng của hoạt động con người dựa vào sự kiềm chế định chế và luân lý phải được quan sát và rút ra từ dữ liệu lịch sử và thực nghiệm. Theo quan điểm này, phân tích là đường tắt đi đến lẽ phải thông thường: nếu dựa vào tính hợp thức thích hợp, sẽ cho phép các quy tắc chung hay lý thuyết chung phát triển và ứng dụng trong tình huống cụ thể.
3. Định luật kinh tế
Tính phức tạp trong hoạt động con người, trong đó Marshall khẳng định phải tìm tính hợp thức, là một trong những lý do chính mà nhiều nhà tư tưởng lịch sử và chính thống khác phủ nhận phân tích kinh tế truyền thông. Nhận thức về khả năng bị tổn hại của lý thuyết kinh tế ở bình diện này, Marshall đưa ra lập luận bảo vệ thật xuất sắc. Trong Quyển I ông so sánh phương pháp kinh tế học truyền thông với phương pháp của khoa học vật lý và tự nhiên:
“Định luật kinh tế là những phát biểu về khuynh hướng hành động của con người trong một số điều kiện. Chúng mang tính giả thuyết chỉ trong cùng ý nghĩa như trong định luật các môn khoa học tự nhiên, vì những định luật ấy cũng bao hàm hay ngụ ý điều kiện. Nhưng khó khăn hơn trong việc làm cho điều kiện rõ ràng, và nhiều nguy hiểm hơn trong bết cứ thất bại nào khi làm như thế trong kinh tế học hơn là vật lý học. Định luật hoạt động của con người thật ra không hề đơn giản, khi xác định thật rõ ràng có thể khẳng định như định luật trọng lực, nhưng phần lớn định luật này có thể xếp hạng những định luật của khoa học tự nhiên giải quyết vấn đề chủ thể phức tạp”. (Principles, trang 38).
Lý thuyết kinh tế theo Marshall nghĩ được tạo điều kiện trong thực tế kinh tế của hành vi con người có thể phân đoạn từ những thực tế chung. Kinh tế học liên quan đến động cơ có thể đánh giả nghĩa là tiền tệ và giá cả. Mặc dù không phải là cách đánh giá hoàn hảo:
“Với sự phòng ngừa cẩn thận, tiền tệ cung cấp cách đánh giá khá tốt tác động biến đổi của phần lớn các động cơ qua đó định dạng đời sống con người” (Principles, trang 39).
4. Vai trò của thời gian
Lúc ấy phương pháp của Marshall bao gồm sự rút ra lẽ phải thông thường từ các thực tế kinh tế và hành vi sử dụng phân tích và lý lẽ chung. Khoa học kinh tế phát sinh từ việc ứng dụng phương pháp này có hai mục đích hiểu biết giống hệt nhau vì lợi ích của riêng chúng và sử dụng trong các vấn đề thực tế. Nhưng phương pháp này chính xác bao gồm điều gì trong số này? Nếu câu đố của tự nhiên tỏ ra phức tạp và suy nghĩ con người có giới hạn, như Marshall khẳng định, thì chúng ta có được hiểu biết về các chủ đề kinh tế cụ thể bằng cách nào? Với sự áp dụng trực tiếp đối với mọi thị trường, chẳng hạn thì bằng cách nào chúng ta phân tích giá và lợi nhuận thích hợp khi thị hiếu, thu nhập, công nghệ và phí tổn luôn tiếp tục thay đổi qua thời gian?
Thời gian đưa vào phân tích thực tế kinh tế và số lượng kinh tế ở từng giai đoạn, có lẽ đây là một trong những đóng góp quan trọng nhất của Marshall phải tính đến tầm quan trọng. Thậm chí quan trọng hơn nữa, ông đưa thời gian vào trong toàn bộ phương pháp tiếp cận phân tích kinh tế, lưu ý lúc đầu rằng đây là:
“Tâm điểm khó khăn chính của hầu hết mỗi vấn đề kinh tế”. (Principle, trang 7).
Trong thảo luận nổi tiếng của ông về sự cân bằng cung cầu bình thường, Marshall giải thích rõ ràng thời gian được xử lý ra sao trong phân tích kinh tế:
“Yếu tố thời gian là nguyên nhân chính của những khó khăn ấy trong nghiên cứu kinh tế đối với con người là cần thiết với khả năng có giới hạn của anh ta phải thực hiện từng bước, phân tích một vấn đề phức tạp, nghiên cứu mỗi lần một chút, và sau cùng phối hợp sau cùng các giải pháp ban đầu thành cách giải quyết ít nhiều hoàn hảo hơn của toàn bộ câu đố. Trong khi phân tích, anh ta cô lập những nguyên nhân làm xáo trộn ấy, mà sự chệch hướng của chúng sẽ là sự bất tiện, trong thời điểm đường cùng gọi là Ceteris Paribus. Nghiên cứu một số nhóm khuynh hướng bị cô lập bằng giả định các vấn đề khác cũng ngang bằng-, sự tồn tại của các khuynh hướng khác không bị phủ nhận, nhưng tác dụng làm xáo trộn của chúng bị xem nhẹ trong một thời điểm, vấn đề vì thế càng được thu hẹp nhiều hơn, thì càng dễ xử lý hơn, nhưng sự tương quan với đời sống thực cũng kém mật thiết hơn. Mỗi xử lý chính xác và cương quyết vấn đề thu hẹp này sẽ giúp xử lý vấn đề bao quát hơn, trong đó bao gồm vấn đề bị thu hẹp, chính xác hơn lẽ ra như chúng có thể. Bằng từng bước, nhiều vấn đề hơn sẽ đưa ra khỏi đường cùng có thể giải quyết không chính xác ít hơn ồ giai đoạn đầu”. (Principles, trang 366).
Vì thế Marshall đề nghị xử lý vấn đề thay đổi liên tục (thời gian) thông qua việc sử dụng thận trọng giả định ceteris paribus, hay các mệnh đề điều kiện. Các tác giả khác ngụ ý “các vấn đề khác cũng ngang bằng” trong các lý thuyết xây dựng, nhưng chính tài năng của Marshall đã giải thích và sử dụng phương pháp phân tích phí tổn sản xuất và trong tất cả lý thuyết giá trị.
5. Đóng góp của Marshall cho kinh tế học
Marshall muốn cải thiện tính chặt chẽ toán học của kinh tế học và biến nó thành một nghề khoa học hơn. Trong những năm 1870, ông đã viết một số lượng nhỏ các đặc điểm về thương mại quốc tế và các vấn đề của chủ nghĩa bảo hộ. Năm 1879, nhiều tác phẩm này được biên soạn thành một tác phẩm mang tên Lý thuyết ngoại thương: Lý thuyết thuần túy về giá trị nội địa. Cùng năm (1879), ông xuất bản Kinh tế Công nghiệp cùng với vợ là Mary Paley .
Mặc dù Marshall đã đưa kinh tế học đến một mức độ toán học khắt khe hơn, ông không muốn toán học làm lu mờ kinh tế học và do đó làm cho kinh tế học không còn thích hợp với những người bình thường. Theo đó, Marshall đã điều chỉnh văn bản trong các cuốn sách của mình cho phù hợp với giáo dân và đưa nội dung toán học vào phần chú thích và phụ lục cho các chuyên gia. Trong một bức thư gửi AL Bowley, ông đã đưa ra hệ thống sau:
(1) Sử dụng toán học như một ngôn ngữ viết tắt, thay vì như một công cụ điều tra. (2) Giữ chúng cho đến khi bạn đã hoàn thành. (3) Dịch sang tiếng Anh. (4) Sau đó, minh họa bằng các ví dụ quan trọng trong cuộc sống thực (5) Đốt cháy toán học. (6) Nếu bạn không thể thành công trong 4, hãy đốt cháy 3. Điều này tôi thường làm. "
Marshall từng là giáo sư kinh tế chính trị của Mary Paley tại Cambridge và hai người kết hôn vào năm 1877, buộc Marshall phải rời vị trí Nghiên cứu sinh của Đại học St John, Cambridge, để tuân thủ các quy tắc độc thân tại trường đại học. Ông trở thành hiệu trưởng đầu tiên của Đại học College, Bristol, cơ sở sau này trở thành Đại học Bristol, một lần nữa giảng dạy về kinh tế chính trị và kinh tế học. Ông đã hoàn thiện Kinh tế Công nghiệp của mình khi ở Bristol, và xuất bản nó rộng rãi hơn ở Anh như một giáo trình kinh tế; hình thức đơn giản của nó dựa trên những nền tảng lý thuyết phức tạp. Marshall đạt được danh tiếng nhờ tác phẩm này, và sau cái chết của William Jevons năm 1882, Marshall trở thành nhà kinh tế học hàng đầu người Anh thuộc trường phái khoa học cùng thời với ông.
Marshall quay trở lại Cambridge, qua một thời gian ngắn tại Balliol College, Oxford, trong thời gian 1883–84, để đảm nhận vị trí Giáo sư Kinh tế Chính trị vào năm 1884 sau cái chết của Henry Fawcett. Tại Cambridge, ông đã cố gắng tạo ra một bộ ba mới cho kinh tế học, một mục tiêu mà ông sẽ đạt được chỉ vào năm 1903. Cho đến thời điểm đó, kinh tế học được giảng dạy theo Bộ ba Khoa học Lịch sử và Đạo đức, điều này đã không cung cấp cho Marshall loại sinh viên năng động và chuyên biệt mà ông mong muốn.