Mục lục bài viết
1. Hướng dẫn của TAND tối cao về thụ lý vụ án dân sự
Căn cứ Mục 2 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự với nội dung như sau:
Theo Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21-9-2011 của Tòa án nhân dân tối cao về thẩm quyền giải quyết những yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là loại giấy tờ có giá, nếu như có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại những giấy tờ này thì Tòa án sẽ không thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng. Như vậy, Tòa án có được thụ lý giải quyết các trường hợp này không?
Theo quy định tại khoản 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định như sau:
- Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác.
Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định giấy tờ có giá là:
- Hối phiếu đòi nợ;
- Hối phiếu nhận nợ;
- Séc.
Khoản 16 Điều 3 của Luật Đất đai năm 2013 quy định rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để cho Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người mà có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Trong mục 1 Phần I Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao đã giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự hướng dẫn rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một quyết định hành chính; nếu như thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Theo đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính, chứ không phải là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ” vì thế cho nên không phải là giấy tờ có giá. Do vậy, hướng dẫn tại Công văn số 141/TANDTC-KHXX xác định rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá vẫn phù hợp với nội dung tại Bộ luật Dân sự năm 2015 và các pháp luật khác đang có hiệu lực.
Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc những người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt các hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Như vậy, nếu như có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chấm dứt các hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất thì Tòa án nhân dân sẽ phải thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
2. Một số hướng dẫn khác của TAND tối cao về thụ lý vụ án dân sự
Về vấn đề thi hành án dân sự:
Ông A phải thi hành án trả cho ông C số tiền là 500 triệu đồng, ông A không có tự nguyện thi hành án. Cơ quan thi hành án xác định được vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử dụng 156m2 đất cùng tài sản gắn liền trên đất, nhưng lại chưa làm những thủ tục thông báo theo quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014, chưa cưỡng chế thi hành án đối với ông A. Ông C tiến hành khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, xác định phần quyền sử dụng đất của ông A trong khối tài sản chung. Sau khi đã thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện H đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do là ông C chưa đủ kiều kiện khởi kiện. Như vậy, quyết định đình chỉ này của Tòa án nhân dân huyện H có đúng không?
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 7 của Luật Thi hành án dân sự thì những người được thi hành án dân sự có quyền khởi kiện dân sự nhằm để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án.
Khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự quy định trong trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, chưa xác định phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án có trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên sẽ phải thông báo cho người phải thi hành án và những người mà có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận với nhau về phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Theo quy định tại khoản 12 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự là một trong các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, trong trường hợp này cơ quan thi hành án dân sự mới chỉ có xác định vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử dụng đất tại thửa đất có diện tích 156m2 cùng tài sản gắn liền trên đất mà chưa làm những thủ tục thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự, ông C (là người được thi hành án) đã thực hiện khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, xác định phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án có trong khối tài sản chung là chưa đủ điều kiện khởi kiện. Do đó, Tòa án nhân huyện H đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là có căn cứ.
3. Khó khăn khi giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng
Thực tiễn giải quyết những vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng cho thấy một số khó khăn, vướng mắc sau:
- Theo khoản 3 Điều 45 BLTTDS năm 2015 quy định: Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của BLDS, khoản 1 và khoản 2 Điều này. Tuy nhiên, các quy định về tập quán, tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng trong BLDS và BLTTDS hiện hành vẫn còn chung chung về khái niệm cũng như trình tự, thủ tục áp dụng, dẫn đến sự lúng túng trong việc vận dụng trên thực tiễn.
- Qua công tác kiểm sát và đánh giá các vụ án có áp dụng án lệ, có thể thấy, các án lệ do Tòa án nhân dân tối cao ban hành trong thời gian vừa qua đã tạo thuận lợi cho Tòa án nhân dân các cấp áp dụng làm căn cứ cho lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định của Tòa án trong các tình huống đa dạng phát sinh từ thực tiễn mà khi xây dựng luật không thể đoán định hết.
+ Các tranh chấp dân sự ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp, loại hình tranh chấp đa dạng trong khi nhiều vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể; do đó, yêu cầu đặt ra đối với công tác phát triển án lệ là một thực tế khách quan. Tuy nhiên, số lượng án lệ đã ban hành nói chung và án lệ về lĩnh vực dân sự nói riêng vẫn còn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xét xử. Một số vấn đề phát sinh từ thực tiễn xét xử cần ban hành án lệ để áp dụng pháp luật thống nhất.
Khi xét xử các vụ án dân sự, Thẩm phán phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để đảm bảo các tình huống pháp lý tương tự được giải quyết như nhau. Tuy nhiên, trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do. Quy định này tạo ra cách hiểu không thống nhất trong thực tiễn áp dụng, theo đó, khi có lý do nào đó thì kể cả trong trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự với án lệ nhưng Hội đồng xét xử cũng có quyền không áp dụng án lệ. Điều này làm giảm tính hiệu lực của án lệ trong thực tiễn.
Xem thêm: Khái niệm thụ lý vụ án dân sự và các điều kiện để thụ lý vụ án dân sự theo luật
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Hướng dẫn của TAND tối cao về thụ lý vụ án dân sự mà Công ty Luật Minh Khuê muốn gửi đến quý khách mang tính tham khảo. Nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến theo số điện thoại 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc.
Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email:lienhe@luatminhkhue.vn để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách! Luật Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn!