Mục lục bài viết
1. Quy định chung về kết luận điều tra.
Bản kết luận điều tra là văn bản do Cơ quan điều tra lập khi kết thúc điều tra vụ án hình sự trong đó ghi nhận lại diễn biến chính của vụ án, các biện pháp điều tra đã áp dụng và chứng cứ đã thu thập được, quan điểm xử lý tiếp tục đối với vụ án của Cơ quan điều tra.
Bản kết luận điều tra phải ghỉ rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ và chữ kí của người ra kết luận điều tra.
Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định định chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, gửi bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can, người bào chữa.
Trong trường hợp đề nghị truy tố thì bản kết luận điều tra ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; lý do và căn cứ đề nghị truy tố; tội danh, điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng; những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án.
Trong trường hợp đình chỉ điều tra, bản kết luận điều tra phải nêu rõ quá trình điều tra, lí do và căn cứ đình chỉ điều tra. Cơ quan điều tra sẽ quyết định đình chỉ điều tra vụ án, bị can và thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Đối với những bị can đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn có sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát, Cơ quan điều tra sẽ đề nghị Viện Kiểm sát cùng cấp hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn này, trả lại tự do nếu bị can đang bị tạm giam, tạm giữ, phục hồi lại những quyền đã bị hạn chế.
2. Phục hồi điều tra là gì ?
Phục hồi điều tra là việc điều tra tiếp tục vụ án hoặc bị can đã bị tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra (Điều 235 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Cơ quan điều tra quyết định phục hồi điều tra khi có lí do để huỷ bỏ quyết định đình chỉ hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm do bị can thực hiện đã được đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra.
Lí do để huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ hoặc quyết định đình chỉ điều tra có thể là bị can đã khỏi bệnh, đã xác định được bị can hoặc có đủ chứng cứ để chứng minh bị can đã thực hiện tội phạm, tìm được nơi trốn tránh của bị can cũng như có căn cứ khác cho rằng quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra không đúng.
Trong trường hợp việc điều tra bị đình chỉ vì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội phạm đã được đại xá nhưng bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định phục hồi điều tra. Quyết định phục hồi điều tra của cơ quan điều tra phải được gửi cho viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại dỉện của họ; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong thời hạn hai ngày kể từ ngày ra quyết định.
3. Các trường hợp tạm đình chỉ điều tra và đình chỉ điều tra.
Theo quy định tại Điều 229 BLTTHS thì Cơ quan điều tra ra quyết đinh tạm đình chỉ điều tra thuộc các trường hợp sau:
- Khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra;
- Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra;
- Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền lợi của họ.
Các trường hợp đình chỉ điều tra được quy định tại Điều 230 BLTTHS:
- Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
- Theo khoản 2 Điều 155 BLTTHS: Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
- Điều 157 BLTTHS: 1- Không có sự việc phạm tội;2- Hành vi không cấu thành tội phạm; 3- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;4- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;5- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;6- Tội phạm đã được đại xá;7- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;8- Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố"
- Điều 16 BLHS, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
- Điều 29 BLHS:
Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
- Khoản 2 Điều 91 BLHS:
Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.
4. Truy nã bị can.
Khi bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị can.
Quyết định truy nã ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can, đặc điểm để nhận dạng bị can, tội phạm mà bị can đã bị khởi tố và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này; kèm theo ảnh bị can (nếu có).
Quyết định truy nã bị can được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai để mọi người phát hiện, bắt người bị truy nã.
Sau khi bắt được bị can theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã. Quyết định đình nã được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai.
5. Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
1. Ghi âm, ghi hình bí mật;
2. Nghe điện thoại bí mật;
3. Thu thập bí mật dữ liệu điện tử.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê