1. Hiểu thế nào về tác phẩm điện ảnh

Tác phẩm điện ảnh là một trong những loại hình tác phẩm nghệ thuật được đầu tư cực kỳ công phu, kỹ lưỡng; là sự kết hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau để tạo thành tác phẩm hoàn thiện. Việc bảo vệ quyền tác giả cho loại tác phẩm này là vấn đề vô cùng quan trọng, và ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai thác, thu lợi nhuận từ giá trị của tác phẩm khi công bố.

Tác phẩm điện ảnh được định nghĩa tại khoản 2 Điều 4 Luật Điện ảnh hiện hành như sau:

“Tác phẩm điện ảnh là sản phẩm nghệ thuật được biểu hiện bằng hình ảnh động kết hợp với âm thanh và các phương tiện khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh.”

Bởi tính chất đặc biệt để tạo nên loại hình tác phẩm này, các quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh cũng được pháp luật hướng dẫn tương ứng cho các tác giả góp sức sáng tạo, cũng như chủ sở hữu tác phẩm.

Việc hình thành nên một tác phẩm điện ảnh là hoạt động sáng tạo tổng hợp nhiều công đoạn, quá trình khác nhau kết hợp các hiệu ứng âm thanh, ánh sáng khác nhau để tạo nên một tác phẩm. Ngoài ra, tác phẩm điện ảnh còn là sản phẩm của hoạt động tư duy sáng tạo của nhiều chủ thể hợp thành. Khoản 1 Điều 21 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 quy định các chủ thể được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh bao gồm như: đạo diễn, biên kịch, quay phim, dựng phim,… Vì vậy, tác phẩm điện ảnh được tạo ra do một tập thể, nhóm người, nên mỗi cá nhân sáng tạo của loại hình này đều có vị trí, vai trò và sự đóng góp riêng biệt trong quá trình hình thành tác phẩm điện ảnh. Kết quả lao động sáng tạo của tác giả được pháp luật và Nhà nước bảo hộ thông qua hệ thống pháp luật, khi Luật sở hữu trí tụệ đã ghi nhận và bảo hộ quyền tác giả tác phẩm điện ảnh cho tập thể tác giả về quyền nhân thân và quyền tài sản. Pháp luật quy định, trước khi khai thác tác phẩm cần có sự đồng ý, cho phép của tập thể tác giả và trả nhuận bút, thù lao để đảm bảo sự tôn trọng đối với tác giả cũng như ghi nhận thành quả, công sức của họ, tiếp thêm động lực để họ tiếp tục có những kết quả lao động sáng tạo về sau.

Tác phẩm mang đặc tính vô hình, nên việc chiếm hữu tác phẩm cũng không thể là một trong các yếu tố xác nhận quyền sở hữu của người chiếm hữu tác phẩm.

Tác phẩm điện ảnh có thể là tác phẩm phái sinh từ một tác phẩm khác, là sáng tạo mới dựa trên tác phẩm gốc đã có theo phương thức chuyển thể, cải biên từ các nguồn tư liệu khác nhau đang được bảo hộ quyền tác giả hoặc đã hết thời hạn bảo hộ. Theo quy định pháp luật hiện hành, quyền làm tác phẩm phái sinh là một độc quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nên để tạo ra một tác phẩm điện ảnh là tác phẩm phái sinh mới đòi hỏi người sáng tạo phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về việc xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả.

Tác phẩm điện ảnh là sản phẩm trí tuệ mang tính nguyên gốc, mang đặc trưng riêng biệt vốn có của người sáng tạo. Theo quy định pháp luật, tác phẩm bảo hộ phải là tác phẩm gốc, tác phẩm gốc được ghi nhận là tác phẩm được hình thành một cách trực tiếp từ quá trình lao động của tác giả mà không phải là sự sao chép từ các tác phẩm khác đã có. Việc xác định tác phẩm gốc trong từng lĩnh vực dựa trên các căn cứ liên quan đến quá trình lao động sáng tạo của tác giả, kết quả của tác phẩm sẽ có dấu ấn riêng biệt.

2. Có những loại hình tác phẩm điện ảnh nào?

Tác phẩm điện ảnh được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 2 Thông tư 28/2014/TT-BVHTTDL quy định về quản lý hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế thuộc diện quản lý chuyên ngành văn hóa của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, theo đó:
Tác phẩm điện ảnh là sản phẩm nghệ thuật được biểu hiện bằng hình ảnh động kết hợp với âm thanh và các phương tiện khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh, bao gồm:
- Phim là tác phẩm điện ảnh bao gồm phim truyện, phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình và các loại phim khác;
- Phim nhựa là phim được sản xuất bằng phương tiện kỹ thuật điện ảnh, được ghi trên vật liệu phim nhựa để chiếu trên màn ảnh thông qua máy chiếu phim;
- Phim video là phim sản xuất bằng phương tiện kỹ thuật video, được ghi trên băng từ, đĩa từ và các vật liệu ghi hình khác để phát thông qua thiết bị video;
- Phim kỹ thuật số là phim được sản xuất bằng công nghệ kỹ thuật số được ghi lại dưới dạng các tập dữ liệu tin học lưu trong đĩa số, ổ cứng, băng từ và các vật liệu lưu trữ thông tin số khác để phát thông qua thiết bị kỹ thuật số;
- Phim truyền hình là phim video, phim kỹ thuật số để phát trên sóng truyền hình;
- Băng phim, đĩa phim là sản phẩm của phim video, phim kỹ thuật số hoặc được in sang từ phim nhựa.
Phim là loại hình tác phẩm điện ảnh phổ biến nhất, bao gồm các thể loại: 
Ngoài tác phẩm phim, còn một số loại hình tác phẩm liên quan trực tiếp đến tác phẩm điện ảnh như: Kịch bản phim, kịch bản phân cảnh, nhạc phim, logo poster phim… Mỗi loại hình tác phẩm này đều có thể được bảo hộ quyền tác giả riêng biệt. 

3. Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh

Theo quy định của Điều ước quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng, chủ thể sáng tạo ra tác phẩm điện ảnh cũng là đối tượng nhận được sự bảo hộ quyền tác giả. Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh cũng được bảo hộ đầy đủ như quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và tác phẩm nghệ thuật khác

Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh là quyền của các tổ chức, cá nhân là tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm điện ảnh. Theo hướng dẫn tại Điều 21 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, các chủ thể liên quan đến tác phẩm điện ảnh được bảo hộ các quyền tác giả khác nhau. Cụ thể:
 
- Người làm công việc đạo diễn, biên kịch, quay phim, dựng phim, sáng tác âm nhạc, thiết kế mỹ thuật, thiết kế âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật trường quay, thiết kế đạo cụ, kỹ xảo và các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm điện ảnh được hưởng các quyền: đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
- Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật để sản xuất tác phẩm điện ảnh được hưởng các quyền tài sản theo quy định định tại Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm

4. Đăng ký bảo hộ quyền tác giả cho tác phẩm điện ảnh?

Hồ sơ đăng ký quyền tác giả về cơ bản cần chuẩn bị theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 50 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành bao gồm:
“a) Tờ khai đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.
Tờ khai phải được làm bằng tiếng Việt và do chính tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoặc người được ủy quyền nộp đơn ký tên và ghi đầy đủ thông tin về người nộp đơn, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hoặc chủ sở hữu quyền liên quan; tóm tắt nội dung tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình hoặc chương trình phát sóng; tên tác giả, tác phẩm được sử dụng làm tác phẩm phái sinh nếu tác phẩm đăng ký là tác phẩm phái sinh; thời gian, địa điểm, hình thức công bố; cam đoan về trách nhiệm đối với các thông tin ghi trong đơn.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu tờ khai đăng ký quyền tác giả, đăng ký quyền liên quan;
b) Hai bản sao tác phẩm đăng ký quyền tác giả hoặc hai bản sao bản định hình đối tượng đăng ký quyền liên quan;
c) Giấy ủy quyền, nếu người nộp đơn là người được ủy quyền;
d) Tài liệu chứng minh quyền nộp đơn, nếu người nộp đơn thụ hưởng quyền đó của người khác do được thừa kế, chuyển giao, kế thừa;
đ) Văn bản đồng ý của các đồng tác giả, nếu tác phẩm có đồng tác giả;
e) Văn bản đồng ý của các đồng chủ sở hữu, nếu quyền tác giả, quyền liên quan thuộc sở hữu chung.

5. Thời hạn bảo hộ tác phẩm điện ảnh có phụ thuộc vào thời điểm công bố hay không?

Pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam hiện hành có quy định về thời hạn mà quyền tác giả bảo hộ đối với tác phẩm. Mục đích chính là nhằm bảo vệ toàn vẹn nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả. Thời hạn mà quyền tác giả bảo chính là khoảng thời gian mà pháp luật sở hữu trí tuệ quy định. Trong khoảng thời gian đó các quyền của chủ sở hữu quyền tác giả đều được bảo đảm.

Với mỗi loại hình tác phẩm sẽ có thời hạn bảo hộ quyền tác giả khác nhau  tùy theo bản chất và từng trường hợp cụ thể. Tác phẩm điện ảnh cũng như thế, bản chất của tác phẩm này cũng sẽ có những nét đặc trưng riêng biệt. Vì vậy mà thời hạn quyền tác giả bảo hộ đối với loại hình này cũng sẽ khác biệt.

Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh được quy định tại Điều 27 của Luật sở hữu trí tuệ và theo quy định tại điều luật này thì có thể xác định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với quyền nhân thân (trừ quyền công bố tác phẩm) là vô thời hạn. Trong khi đó quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản đối với tác phẩm tùy từng trường hợp mà có thời hạn bảo hộ khác nhau.

Nếu trường hợp tác phẩm điện ảnh đó đã được công bố thì thời hạn sẽ là 50 năm kể từ thời điểm công bố. Còn nếu trường hợp tác phẩm không được công bố thì thời hạn sẽ được tính từ thời điểm tác phẩm đó được định hình.

Như vậy thời hạn bảo hộ của quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh không quá phụ thuộc vào yếu tố có được công bố hay không tùy theo từng trường hợp cụ thể mà thời hạn này sẽ được xác định cụ thể.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến bài viết Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại.

Trân trọng./.

Công ty luật Minh Khuê (biên tập)