- 1. Người được bào chữa có phải trả chi phí cho người được chỉ định bào chữa không?
- 2. Trường hợp nào được chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội?
- 3. Người được chỉ định tham gia bào chữa trong những giai đoạn nào?
- 4. Hạn chế trong quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về người được chỉ định bào chữa
1. Người được bào chữa có phải trả chi phí cho người được chỉ định bào chữa không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch 191/2014/TTLT-BTC-BTP quy định về thủ tục chi trả cho người được chỉ định bào chữa như sau:
Cơ quan tố tụng nào yêu cầu luật sư bào chữa thì lập dự toán và trực tiếp chi trả cho luật sư, cụ thể như sau:
- Ở giai đoạn điều tra: Cơ quan điều tra yêu cầu cử luật sư tham gia vụ án ở giai đoạn điều tra, thì cơ quan điều tra có trách nhiệm chi trả cho luật sư đối với những hoạt động của luật sư trong giai đoạn điều tra;
- Ở giai đoạn truy tố: viện Kiểm sát nhân dân có trách nhiệm chi trả cho luật sư đối với những hoạt động của luật sư ở giai đoạn truy tố;
- Ở giai đoạn xét xử: Toà án nhân dân có trách nhiệm chi trả cho luật sư đối với những hoạt động của luật sư ở giai đoạn xét xử.
Mức chi phí và các khoản thù lao của luật sư được chỉ định được tính dựa theo Điều 2 Thông tư liên tịch 191/2014/TTLT-BTC-BTP, cụ thể như sau:
- Mức thù lao chi trả cho 01 ngày làm việc của luật sư tham gia tố tụng trong vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp chỉ định bào chữa là 0,4 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định. Ngày làm việc của luật sư được tính trên cơ sở 08 giờ làm việc.
- Nếu luật sư làm việc trong nhiều ngày, nhưng mỗi ngày thực hiện không đủ 08 giờ, thì số ngày làm việc của luật sư được tính trên tổng số giờ làm việc thực tế của luật sư. Số giờ làm việc lẻ còn lại (nếu có) được tính theo công thức sau:
+ Số giờ làm việc lẻ không đủ 06 giờ thì tính thành ½ ngày làm việc.
+ Số giờ làm việc lẻ từ 06 giờ trở lên thì tính thành 01 ngày làm việc.
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên, người được bào chữa sẽ không phải trả chi phí cho người được chỉ định bào chữa mà nghĩa vụ chi trả sẽ do cơ quan tố tụng thực hiện.
2. Trường hợp nào được chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội?
Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự là quy định mang tính nhân đạo của pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Theo đó, trong một số trường hợp đặc thù, do tính chất và hậu quả của tội phạm, hoặc do hạn chế về năng lực nhận thức, năng lực hành vi, dù bị can, bị cáo không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải chỉ định người bào chữa để đảm bảo quyền lợi cho họ.
Quyền bào chữa là cần thiết để người bị buộc tội bảo vệ quyền và lợi ịch hợp pháp của mình, nhằm đảm bảo việc xét xử khách quan, công minh, giảm oan sai người vô tội trong xét xử.
Về nguyên tắc, người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, luật quy định sự tham gia của người bào chữa vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của bi can, bị cáo. Đó là các trường hợp mà những người bị buộc tội hoặc người đại điện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sự hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc cử người bào chữa cho họ nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về trường hợp được chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội.
Nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ trong các trường hợp sau:
- Người bị buộc tội về tội mà mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
- Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa cho mình; người bị buộc tội là người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
Tuy nhiên, trong các trường hợp được chỉ định trên, người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ muốn thay đổi hoặc từ chối quyền bào chữa thì họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.
3. Người được chỉ định tham gia bào chữa trong những giai đoạn nào?
Căn cứ theo Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
- Nếu người bị buộc tội bị bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
- Đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, để giữ bí mật điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
- Đối với giai đoạn khởi tố, cơ quan tiến hành tố tụng xem xét nếu người bị buộc tội thuộc các trường hợp được chỉ định người bào chữa mà người bị buộc tội, người thân của người bị buộc tội không mời luật sư bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền phải yêu cầu hoặc đề nghị Đoàn Luật sư cử luật sư tham gia bào chữa.
Vậy, luật sư được chỉ định tham gia bào chữa từ giai đoạn khởi tố bị can đến khi hoàn tất giai đoạn xét xử, bao gồm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn khởi tố bị can
- Giai đoạn điều tra
- Giai đoạn truy tố
- Giai đoạn xét xử
4. Hạn chế trong quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về người được chỉ định bào chữa
Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có quy định chủ thể được bào chữa bắt buộc là người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 là như vậy nhưng trong thực tiễn áp dụng rất khó khăn khi áp dụng, vì có nhiều cách hiểu khác nhau đối với trường hợp trên và hiện tại chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn áp dụng.
Đối với người bị buộc tội có nhược điểm về tâm thần thì khó khăn nhất là trường hợp những nhược điểm này không phải bẩm sinh mà xuất hiện trong quá trình điều tra, xét xử vụ án. Khi cơ quan tiến hành tố tụng có nghi ngờ về tình trạng tâm thần của người bị buộc tội thì các cơ quan này phải trưng cầu giám định. Vì vậy, pháp luật cần phải quy định thời điểm ra quyết định trưng cầu giám định tâm thần là thời điểm các cơ quan này có nghĩa vụ đảm bảo người bào chữa cho người bị buộc tội chứ không chờ kết luận giám định.
Nếu kết luận giám định là người bị buộc tội có nhược điểm về tâm thần thì sẽ đảm bảo được quyền bào chữa cho họ ngay từ đầu. Còn kết luận giám định không có nhược điểm về tâm thần thì lúc này sự tham gia tiếp theo của người bào chữa trong vụ án sẽ được giải quyết như trường hợp thông thường khác, tức là trên cơ sở thỏa thuận giữa người bị buộc tội và người bào chữa.
Để tham khảo thêm thông tin về vấn đề này, quý khách hàng có thể tìm hiểu tại bài viết: Quy định về chỉ định người bào chữa theo Luật tố tụng hình sự? của Luật Minh Khuê.
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Trường hợp nào được chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội? mà Công ty Luật Minh Khuê muốn gửi đến quý khách mang tính tham khảo. Nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến theo số điện thoại 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc.
Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách! Luật Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn!