I. Tác phẩm “Tinh thần pháp luật” của Nhà triết học Sáclơ Đờ Môngtexkiơ (Montesquieu)

1. Giới thiệu tác phẩm “Tinh thần pháp luật”

Giai doạn từ năm 1741 – 1747, Nhà triết học Montesquieu tập trung toàn lực vào nghiên cứu và viết cuốn sách lớn, đó là "Tinh thần pháp luật”. Đến tháng 10 năm 1748 ông cho xuất bản cuốn "Tinh thần pháp luật” tại Genève, in thành 02 tập (có loại in thành 03 tập), khoảng 1000 trang.

Ở tác phẩm này, Montesquieu nghiên cứu luật pháp không như một nhà luật học thuần túy, mà nghiên cứu cái hồn, cái tinh thần của pháp luật. Ông muốn khám phá các quy luật trong sự hỗn độn của luật pháp các quốc gia, dân tộc qua các thời đại. Đây là một tác phẩm triết học về pháp luật sâu sắc, trong đó luật pháp được giải thích từ nhiều khía cạnh khác nhau.

Viết một tác phẩm phong phú như "Tinh thần pháp luật” đương nhiên đòi hỏi rất nhiều tài liệu. Ngoài một số về luật và về lịch sử bằng tiếng Latinh (trước kia được Montesquieu dùng để viết cuốn "Khảo về những nguyên nhân của sự cường thịnh và suy vong vủa các người La Mã”, còn phải kể đến cuốn "Chính trị luận” (La politique) của Aristote, cuốn "Quân vương” (Le prince) của Machiavel (1514), cuốn "Ảo tưởng” (L’Utopie) của Thomas Morus (1516), "Sáu quyển nói về chính thể cộng hòa” (Les six livers de la République) của Jean Bodin (1576 – 1578), cuốn "Khái luận về người công dân” (Du citoyen) của Hobbes (1642), trong thư viện của Montesquieu còn nhiều sách về lịch sử liên quan đến tất cả các nước châu Âu và châu Á và những du kí của các nhà truyền giáo.

Trong nhiều chương của tác phẩm, ông không tránh khỏi sự lưỡng lự giữa một khoa học gia và một đạo đức gia. Chẳng hạn, trong những chương chính yếu của tác phẩm, nhà đạo đức chứ không phải nhà bác học đã định nghĩa những nguyên tắc của ba loại chính thể (đạo đức, danh dự, sợ hãi) như là những căn bản đạo đức đã quy định những chế độ khác nhau. Mặc dầu những kết quả của sự phân tích ấy rất đúng người ta có thể tự hỏi rằng phải chăng Montesquieu đã muốn tìm kiếm tâm lý của một chế độ chính trị y như là người ta suy luận cách xử sự của một cá nhân ở tính nết của y. Lối lý luận của một nhà đạo đức đã tạo nên đẳng cấp trong lúc hình thành các chế độ: nếu chính thể dân chủ căn cứ vào một gia tài tinh thần, làm sao người ta lại không kết luận rằng chính thể ấy hơn chính thể quân chủ căn cứ vào thành kiến danh dự, và hơn chính thể độc tài nhiều, chính thể này sở dĩ mạnh là do sự sợ hãi tức là sự phủ định mọi cảm tình đạo đức? Những kết luận như thế rõ ràng đã biểu lộ những mong ước của một nhà đạo đức hơn là kết quả khách quan của một sự nhận xét khoa học.

=> Mặc dù tác phẩm "Tinh thần pháp luật” của ông có những hạn chế về mặt phương pháp của Montesquieu nhưng không thể phủ nhận những giá trị lớn lao của tác phẩm. Montesquieu đã tỏ ra như là người đầu tiên đề cập đến khoa xã hội học (mặc dù phải đến thời Auguste Comte (1798 – 1857) mới có tên ấy)). Khoa học xã hội đối với ông không phải là một khoa học trừu tượng nữa. Dưới tất cả các hình thức (dân luật, hình luật, luật hiến pháp, công pháp quốc tế), khoa học luật liên hệ tới một số lớn các yếu tố lịch sử, địa lý, kinh tế, luân lý.

Như vậy, Montesquieu không những chỉ ra tính tương đối của luật pháp, mà còn tìm ra tính chất phức tạp của những nguyên nhân định hình nên một nền pháp lý. Tuy rằng, trong phần lớn các nhận định ấy, Montesquieu chỉ chứng minh được phần nào chứ không thể chứng minh được hết, song các nhà xã hội học hiện đại (dù chỉ trích những phương pháp của ông) không bao giờ phủ nhận ông là bậc tiền bối. Tất nhiên, cuốn "Tinh thần pháp luật" đặt trong thời đại của nó, là một tác phẩm hết sức tân kỳ.

 

2. Bố cục tác phẩm “Tinh thần pháp luật” của Nhà triết học Sáclơ Đờ Môngtexkiơ

Theo bài viết đợt trước của chúng tôi, bố cục của tác phẩm này có rất nhiều nhà phê bình tranh luận.

Bên cạnh có học giả cho rằng đó là bố cục hợp với một lý luận cực kỳ chặt chẽ. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có nhà phê bình thì cho rằng, Montesquieu viết không theo một bố cục nào cả. Được đánh giá là viết không có phương pháp, cách sắp xếp các Quyển, Chương không thật sự logic (có những quyển có rất nhiều chương, có quyển chỉ có 1 chương (quyển V))… Chính những điều này khiến người đọc khó nắm bắt được mạch của tác phẩm nếu không đọc một cách cẩn thận, chăm chú. Chỉ khi đi vào đọc từ câu, từng chữ, nghiền ngẫm, ta dần cảm nhận được cái hay, cái thấu đáo, cái tinh thần của tác phẩm, đạo đức của tác giả khi viết tác phẩm này.

Tuy nhiên, có thể chia tác phẩm phẩm thành 5 phần cụ thể:

- Phần 1: Quyển I –X: Montesquieu bàn về luật của tự nhiên, luật con người, những nguyên nhân chính trị quyết định luật pháp; ông cũng định nghĩa 3 hình thức chính thể (quyển II) và những nguyên tắc của nó (quyển III);  các yếu tố ảnh hưởng đến sự tồn vong của 3 chính thể: giáo dục (quyển IV) , các luật có liên quan, hệ thống an ninh (quyển IX), hệ thống phòng thủ (quyển X) và sự sa đoạ của 3 chính thể (quyển VIII)

- Phần 2: Quyển XI – XIII: ông tiếp tục nghiên cứu những yếu tố chính trị bằng cách phân tích trước hết những luật lệ nào cần thiết trong 3 loại chính thể; bàn về tự do chính trị chính (tam quyền phân lập - Quyển XI: tự do chính trị trong mối quan hệ với hiến pháp) và tự do công dân (Quyển XII: tự do chính trị trong mối quan hệ với công dân)

- Phần 3: Quyển XIV – XIX: Montesquieu chứng minh những yếu tố có tính chất vật chất (khí hậu, đất đai) hay tinh thần (tập quán, phong tục của một nước) tham gia vào việc tạo thành luật pháp

- Phần 4: Từ quyển XXI - quyển XXV: mối quan hệ của pháp luật với thương mại, với việc sử dụng tiền tệ, với dân số, với tôn giáo các nước

- Phần 5: Quyển XXVI – XXXI: bàn về cơ sở xây dựng nên pháp luật và bàn về nước Pháp

Như vậy, bàn về tự do tại phần 3 trong tác phẩm. Với một tác phẩm đồ sộ, không thể trình bày dàn trải hết các nội dung được chính vì vậy trong giới hạn bài viết này, chúng tôi chỉ phân tích và biên soạn những phần nội dung liên quan đến tự do, chủ nghĩa tự do…

 

II. Phân tích Tự do, chủ nghĩa tự do trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”

1. Chủ nghĩa tự do trong tác phẩm

Trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật” ra đời với những phương pháp cứu chữa hợp lý căn cứ vào một lý tưởng tự do vừa phải (là tính tương đối của nền pháp lý), qua phần 3 đã nêu ở mực trên nói về Hiến pháp Anh. Trong đó, những định chế ở thế quân bình được duy trì do sự phân quyền. Tuy ông chủ trương rằng ông thấy sự cần thiết trật tự xã hội được thiết lập, ông đã đưa ra một chương trình cải cách về chính trị mà ảnh hưởng về sau rất lớn. Năm 1789, các luật gia của phái Bình dân sử dụng chương trình cải cách ấy. Nhiều điều khoản trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền phỏng theo những ý tưởng của Montesquieu và bản Hiến pháp năm 1791 đã thực hiện nguyên tắc phân quyền. Rõ ràng thì cuốn "Tinh thần pháp luật” đã đưa vào trong định chế chính trị của nước Pháp một nguyên tắc, mà sau này chính thể quân chủ vẫn tôn trọng, luôn tỏ ý không xâm phạm đến sự cơ cấu của thuyết tam quyền; tuy rằng trong thực tế, các chính thể ấy đều bị nhánh hành pháp lạm dụng và chi phối.

Ông Montesquieu đã khiến cho dân Pháp kinh hãi sự độc tài, còn như lý tưởng tự do và đạo đức Montesquieu cho là đặc tính của chính thể dân chủ và coi là đặc điểm của các nước cộng hòa thời thượng cổ. Và có thể chính ông, có lẽ cũng không nghĩ tới lý tưởng ấy kích thích nhiệt tâm của phái dân chủ cấp tiến năm 1792. Vượt qua sự gắn bó lịch sử, không như mối quan hệ Hoa Kỳ - Anh quốc, cũng không hoàn toàn do mối bang giao một thời ấm cúng giữa Pháp – Hoa Kỳ, "Tinh thần pháp luật” cũng truyền cảm hứng cho các nhà lập quốc Hoa Kỳ, yếu tố kỹ trị và tinh thần phân quyền rõ rệt (thậm chí hơn cả ở Pháp) để họ thiết kế nên bản Hiến pháp, cho đến ngày nay được xem là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Hoa Kỳ ra thế giới.

Tại Việt Nam, tác phẩm này của Montesquieu đã được Trịnh Xuân Ngạn trích dịch 18 chương với tên gọi "Vạn pháp Tinh lý” và xuất bản năm 1961. Gần đây hơn, khoảng năm 1995, Hoàng Thanh Đạm đã dịch theo bản tiếng Pháp năm 1934 và được Đại học KHXH và NV Hà Nội xuất bản. Đến năm 2010, Nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản bản dịch này (Ảnh trên), dù đây chưa phải là một bản dịch đầy đủ. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị cũng đã xuất bản bản dịch này với tên gọi "Bàn về Tinh thần pháp luật”.

Để bảo vệ tự do cá nhân, tự do của công quyền phải bị giới hạn. Công quyền bị giới hạn bằng sự phân chia quyền lực thành nhiều nhánh (lập pháp, hành pháp và tư pháp) để chúng tự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau, và tất cả đều phải tuân thủ luật chơi chung (là hiến pháp/ chủ nghĩa lập hiến). Nguyên tắc đơn giản này vẫn còn quá khó khăn để được hiện thực hóa tại nhiều quốc gia đang trong tiến trình chuyển đổi.

 

2. Nội dung tự do trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật" 

Ông Montesquieu là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của chủ nghĩa tự do, nhưng cái mà Shklar gọi là "chủ nghĩa tự do của sự sợ hãi". Theo Montesquieu, tự do chính trị là "sự tĩnh lặng của tâm trí nảy sinh từ ý kiến ​​của mỗi người về sự an toàn của mình".

Tự do trong tác phẩm này của ông không phải là quyền tự do làm bất cứ điều gì mà chúng ta muốn, ví dụ như là: chúng ta muốn có quyền tự do làm hại người khác, thì người khác cũng sẽ có quyền tự do làm hại chúng ta, và chúng ta sẽ không tin tưởng vào sự an toàn của chính mình.

Tự do theo ông liên quan đến việc sống theo luật bảo vệ chúng ta khỏi bị tổn hại trong khi để chúng ta tự do làm nhiều nhất có thể, và điều đó cho phép chúng ta cảm thấy niềm tin lớn nhất có thể rằng nếu chúng ta tuân theo những luật đó, quyền lực của nhà nước sẽ không nhắm vào chúng ta.

Nếu muốn cung cấp cho công dân của mình sự tự do lớn nhất có thể, chính phủ phải có một số tính năng nhất định. Ông Sáclơ Đờ Môngtexkiơ đã nêu rõ nội dung này ở những điểm sau:

- Ông Sáclơ Đờ Môngtexkiơ nói: “kinh nghiệm thường xuyên cho chúng ta thấy rằng mọi người được đầu tư bằng quyền lực đều có xu hướng lạm dụng nó… nên từ chính bản chất của sự vật, quyền lực phải là một tấm séc bảo vệ quyền lực”. Điều này đạt được thông qua việc tách biệt các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp của chính phủ. Nếu những người hoặc cơ quan khác nhau thực hiện những quyền hạn này, thì mỗi người có thể kiểm tra những người khác nếu họ cố gắng lạm dụng quyền hạn của mình. Nhưng nếu một người hoặc cơ thể nắm giữ một số hoặc tất cả các quyền lực này, thì không có gì ngăn cản người hoặc cơ thể đó hành động độc tài; và người dân sẽ không tin tưởng vào an ninh của chính họ.

Những sắp xếp nhất định giúp ba quyền kiểm tra lẫn nhau dễ dàng hơn. Montesquieu lập luận rằng chỉ có quyền lập pháp mới có quyền đánh thuế, vì sau đó nó có thể tước đi tài trợ của cơ quan hành pháp nếu họ cố gắng áp đặt ý chí của mình một cách tùy tiện. Tương tự như vậy, quyền hành pháp nên có quyền phủ quyết các hành vi của cơ quan lập pháp, và cơ quan lập pháp nên bao gồm hai viện, mỗi viện có thể ngăn cản các hành vi của cơ quan kia trở thành luật. Cơ quan tư pháp nên độc lập với cả cơ quan lập pháp và hành pháp, và nên hạn chế việc áp dụng luật cho các trường hợp cụ thể một cách cố định và nhất quán, để "quyền lực tư pháp, quá khủng khiếp đối với nhân loại, ... trở thành, như nó vốn có, vô hình ”, và người ta“ sợ văn phòng, nhưng không sợ quan tòa ”.

Liberty cũng yêu cầu luật pháp chỉ liên quan đến các mối đe dọa đối với trật tự và an ninh công cộng, vì những luật như vậy sẽ bảo vệ chúng ta khỏi bị tổn hại trong khi để chúng ta tự do làm nhiều việc khác nhất có thể. Vì vậy, chẳng hạn, luật pháp không nên liên quan đến những tội chống lại Đức Chúa Trời, vì Ngài không yêu cầu sự bảo vệ của họ. Họ không nên cấm những gì họ không cần phải cấm.

- Luật pháp cần được xây dựng để giúp công dân dễ dàng nhất có thể tự bảo vệ mình khỏi bị trừng phạt bằng cách không phạm tội. Chúng không nên mơ hồ, vì nếu có, chúng ta có thể không bao giờ chắc chắn liệu một số hành động cụ thể có phải là tội phạm hay không. Họ cũng không nên ngăn cấm những điều chúng ta có thể vô tình làm, như va vào tượng của hoàng đế, hoặc vô tình, như nghi ngờ sự khôn ngoan của một trong những sắc lệnh của ngài; nếu những hành động đó là tội ác, thì không có nỗ lực nào để tuân thủ luật pháp của đất nước chúng ta sẽ biện minh cho sự tự tin rằng chúng ta sẽ thành công, và do đó chúng ta không bao giờ có thể cảm thấy an toàn khi bị truy tố hình sự.

- Cuối cùng, luật pháp nên tạo điều kiện dễ dàng nhất có thể cho một người vô tội chứng minh sự vô tội của mình. Họ nên quan tâm đến hành vi bên ngoài, không phải (ví dụ) suy nghĩ và ước mơ của chúng ta, vì trong khi chúng ta có thể cố gắng chứng minh rằng chúng ta đã không thực hiện một số hành động, chúng ta không thể chứng minh rằng chúng ta chưa bao giờ có một số suy nghĩ. Luật pháp không nên hình sự hóa những hành vi vốn dĩ rất khó chứng minh, chẳng hạn như hành vi phù thủy; và các nhà lập pháp nên thận trọng khi xử lý các tội phạm như sodomy. Việc ông Montesquieu nhấn mạnh vào mối liên hệ giữa quyền tự do và các chi tiết của luật hình sự là điều không bình thường ở những người cùng thời với ông, và đã truyền cảm hứng cho những nhà cải cách luật sau này như Cesare Beccaria.

 

(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và biên tập).