Như chúng ta biết, hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Ngày nay, hoạt đống sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng không chỉ để phát triển nền kinh tế mà còn để xã hội văn minh và hiện đại hơn. Hiện nay để có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng hàng hóa của người dân trên toàn thế giới thì hàng hóa được sản xuất nhiều hơn dựa trên những phương thức khác nhau mà việc sản xuất được chú trọng và đầu tư hơn cho sản xuất.

 

1. Khái niệm phương thức sản xuất

Trước khi tìm hiểu cụ thể về phương thức sản xuất và vai trò của nó thì chũng ta cần tìm hiểu rõ về nội dung liên quan đến sản xuất vật chất. Từ xưa đến nay, con người và xã hội loài người được hình thành và phát triển trong quá trình sản xuất vật chất. Lịch sử xã hội, do vậy trước hết là lịch sử của sản xuất vật chất. Vì vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội, sản xuất của cải vật chất là điểm xuất phát đề tìm ra các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.

Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên để cải biến các dạng vật chất của tự nhiên thành của cải phục vụ cho đời sống xã hội. Đây là hoạt động nền tảng, cơ bản và có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và tổn tại của xã hội, là cái khác biệt căn bản giữa con người và động vật, là tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại và phát triển của con người. Trong quá trình sản xuất vật chất con người tạo ra tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển mình, đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó. Chính trong quá trình này, con người đã từng bước làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội và biến đổi chính bản thân mình. 

Để giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó mà căn bản là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của nó - cái quyết định toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của một xã hội nhất định. 

Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương pháp sản xuất nhất định. Theo định nghĩa giáo trình triết học Mac-Lenin đưa ra giải thích phương thức sản xuất là gì như sau: "Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người."

Theo đó, trong quá trình sản xuất của mình, con người có những cách thức sản xuất ra những của cải vật chất khác nhau. Chính sự khác nhau ấy đã tạo ra những đặc trưng riêng có cho mỗi kiểu xã hội nhất định (xã hội công sản nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội xã hội chủ nghĩa,...). Khi nghiên cứu xã hội loài người, C.Mác đã bắt đầu từ chính quá trình sản xuất ấy qua những phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Phương thức sản xuất bao gồm hai mối quan hệ cơ bản: con người quan hệ với giới tự nhiên, gọi là lực lượng sản xuất và con người quan hệ với nhau, gọi là quan hệ sản xuất. 

Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn nhất định của xã hội loài người. Tương ứng với mỗi cách thức đó, trong lịch sử xã hội sẽ hình thành nên những tính chất, kết cấu và đặc điểm tương ứng về mặt lịch sử. Và "phương thức mà con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình phụ thuộc trước hết vào tính chất của chính những tư liệu sinh hoạt mà con người thấy có sẵn và phải tái sản xuất ra".

Vì thế, dựa vào phương thức sản xuất đặc trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta có thể phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, hiểu thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế - xã hội nào. 

Mỗi giai đoạn lịch sử đều có một phương thức sản xuất riêng, ở xã hội nguyên thủy có phương thức sản xuất là những kỹ thuật đánh bắt tự nhiên ở mức độ vũ khí còn thô sơ, chưa có sự sáng tạo, không đòi hỏi công nghệ. Trong xã hội hiện đại, mỗi phương thức sản xuất có sự yêu cầu cao hơn, yêu cầu phải có trình độ, bằng cấp, kinh nghiệm làm việc lâu năm, thì mới được tuyển vào các công ty, doanh nghiệp tư nhân và nhà nước.

Ví dụ về phương thức sản xuất trong triết học: Phương thức sản xuất của xã hội phong kiến ở Việt Nam là phương thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu là dùng sức người, kết hợp cùng với những công cụ thô sơ như: cuốc, xẻng,... cày thì dùng trâu. Do đó năng suất thu hoạch không được cao, sản phẩm làm ra ít thông qua trao đổi mua bán. Đây là nền sản xuất thủ công nhỏ lẻ, năng xuất thu hoạch không được cao và nó quyết định đến tính chất của xã hội Việt Nam bấy giờ là: xã hội phong kiến; kết cấu giai cấp gồm 2 giai cấp chủ yếu là địa chủ và nông dân, mâu thuẫn chủ yếu nhất trong xã hội cũng là giữa địa chủ và nông dân với sự bóc lột của địa chủ với nông dân bằng địa tô phong kiến. 

 

2. Vai trò của phương thức sản xuất

Đối với sự vận động của lịch sử loài người cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội,.. được chuyển sang một chất mới. Và sự thay thế hợp quy luật khách quan của các phương thức sản xuất tạo nên quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

Phương thức sản xuất là cách thức mà con người làm ra của cải vật chất cho xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Theo cách đó, con người có những quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau trong sản xuất; hay nói cách khác, phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Hai mặt này được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất, có sự tác động qua lại lẫn nhau, được C.Mác gọi là "quan hệ song trùng" của bản thân sự sản xuất xã hội.bảo h

Mỗi giai đoạn lịch sử đều có một phương thức sản xuất riêng và phương thức sản xuất vật chất là một động lực quyết định của sự phát triển xã hội loài người. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, thay thế phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời thì sớm hay muộn mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản từ kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp, từ các quan điểm chính trị xã hội đến các thiết chế chính trị - xã hội. Do đó, lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của sản xuất, lịch sử của các phương sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển. Việc thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới diễn ra không đơn giản, dễ dàng. Đó là quá trình cải biến cách mạng. Phương thức sản xuất mới muốn trở thành phương thức sản xuất thống trị thì phải trải qua cách mạng xã hội và gắn liền với với chế độ chính trị.

Sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là hoạt đông nền tảng làm phát sinh, phát triển nhưng mối quan hệ xã hội của con người; nó là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.

Xuất phát từ nhân tố "con người hiện thực" C.Mác cho rằng, tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và đó là việc: "con người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử". Muốn vật con người cần có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo,...những thứ đó chỉ có thể được tạo ra từ sản xuất vật chất. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên của con người là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, đó là hoạt động cơ bản của con người, là cái để phân biệt hoạt động của con người với con vật. Để tiến hành sản xuất vật chất con người phải có không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà phải có quan hệ với nhau và trên cơ sở những quan hệ sản xuất này mà phát sinh các quan hệ khác nhau: chính trị, đạo đức, pháp luật,... Vì vậy, trong quá trình sản xuất vật chất con người không những làm biến đổi tự nhiên, biến bổi xã hội đồng thời làm biến đổi cả bản thân mình. Do đó, sản xuất vật chất không ngừng phát triển tất yếu làm cho xã hội không ngừng phát triển.

Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Sự vận động, phát triển của xã hội suy cho cùng có nguyên nhân từ sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội thì phải xuất phát từ thực trạng sản xuất vật chất của xã hội.

Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tiến bộ xã hội. Sản xuất vật chất không ngừng được các thế hệ loài người phát triển từ thấp đến cao. Mỗi khi phương thức sản xuất thay đổi, quan hệ giữa người với người trong sản xuất cũng thay đổi; và do vậy, mọi mặt của đời sống xã hội đều có sự thay đổi theo sự tiến bộ của phương thức sản xuất.

Như vậy, phương thức sản xuất nó tác động đến sự phát triển của đời sống xã hội, nhờ đó mà có thể tạo ra năng suất lao động cao hơn so với phương thức sản xuất phong kiến với trình độ lao động thủ công, hình thức tổ chức kinh tế còn hạn chế. Vì vậy các thời đại kinh tế khác nhau không chỉ dựa trên hình thức sản xuất mà còn dựa trên cách cải tiến như thế nào, với công cụ máy móc gì.

Mỗi xã hội đều có một phương thức sản xuất riên biệt nhất định. Sự thay đổi của các phương thức sản xuất nó quyết định sự phát triển và tồn tại của loài người từ thấp tới cao. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với nhau ở một trình độ nhất định.

 

3. Các giai đoạn phát triển của phương thức sản xuất

Theo Mác, xã hội loài người trong các giai đoạn lịch sử và ở các khu vực khác nhau có thể trải qua 7 phương thức sản xuất khác nhau. Cụ thể là:

- Phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy: Xã hội loài người được tổ chức trong các cấu trúc bộ lạc truyền thống với ít hơn 50 người trên một đơn vị sản xuất, điển hình bởi việc chia sẻ sản xuất và tiêu thụ toàn bộ sản phẩm xã hội. Do không có sản phẩm thặng dư nào được sản xuất, nên không có khả năng tồn tại các giai cấp thống trị. Do phương thức sản xuất này không có sự phân chia giai cấp, nó được coi là xã hội không giai cấp. Các công cụ của thời kỳ đồ đá, các hoạt động săn bắn, hái lượm và nông nghiệp thời kỳ đầu là các lực lượng sản xuất chính của phương thức sản xuất này.

- Phương thức sản xuất Châu Á: Khái niệm phương thức sản xuất Châu Á chính thức ra đời từ tác phẩm Góp phần phê phán khoa học kinh tế chính trị của Mác (1859). Đó chính là kết quả của quá trình nghiên cứu lâu dài của Mác, từ tác phẩm Hệ tư tưởng (1845 - 1846) đến tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị.  Từ đây, Mác đã phát hiện ra một số đặc điểm của phương thức sản xuất châu Á và chính thức đưa ra sử dụng khái niệm phương thức sản xuất châu Á thay cho khái niệm "hình thái Á Châu". Phương thức sản xuất Châu Á được cho là hình thức sơ khai của xã hội có giai cấp, trong đó một nhóm nhỏ thu được các sản phẩm thặng dư xã hội bằng bạo lực nhắm vào các nhóm cộng đồng định cư hay không định cư trong lãnh thổ đó. Sự bóc lột lao động là khai thác lao động cưỡng bức không trả công trong thời kỹ nhãn rỗi mỗi năm (để xây dựng những công trình như kim tự tháp ở Ai Cập, đền thời ở thung lũng Mesopotamia cổ đại và Ba Tư, nhà tắm công xã cổ ở Ấn Độ hay Vạn lý trường thành ở Trung Quốc). Ngoài ra việc bóc lột lao động cũng là việc bòn rút sản phẩm trực tiếp từ các cộng đồng bị bóc lột. Dạng sở hữu chính của phương thức này là chiếm hữu tôn giáo trực tiếp trong các cộng đồng (làng, xóm thôn, nhóm) đối với tất cả những gì tồn tại trong chúng. Tầng lớp cai trị của xã hội này nói chung là tầng lớp quý tộc bán thần quyền, tự cho mình là hiện thân của thần thánh trên trái đất. Các lực lượng sản xuất chính của xã hội này bao gồm các nông dân với các kỹ thuật canh tác nông nghiệp nền tảng, các công trình xây dựng lớn và các kho chứa khổng lồ của các sản phẩm dành cho phúc lợi xã hội.

- Phương thức sản xuất chiểm hữu nô lệ: No tương tự như phương thức châu Á, nhưng khác biệt ở dạng sở hữu là sự chiếm hữu cá nhân trực tiếp những gì thuộc về loài người. Ngoài ra, tầng lớp thống trị thông thường tránh nói rằng họ là hiện thân của thánh thần mà thích nói rằng họ là hậu duệ của thánh thần, hay tìm kiếm các lý lẽ bào chữa khác để bảo về quyền cai trị của mình. Các xã hội Hy Lạp và La Mã cổ đại là các ví dụ điển hình của phương thức sản xuất này. Các lực lượng sản xuất của phương thức này bao gồm nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), sử dụng tích cực gia súc trong nông nghiệp làm sức kéo, cũng như hệ thống thương mại bắt đầu phát triển. 

- Phương thức sản xuất phong kiến

- Phương thức sản xuất tư bản

- Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa

- Phương thức sản xuất công sản.

 

4. Các phương thức sản xuất phổ biến

Hiện nay, xã hội loài người thường sử dụng 4 phương thức sản xuất phổ biến dưới đây:

- Phương thức sản xuất là nguồn động lực để con người tách ra khour thể loài vật, là yếu tố cơ bản để phân biệt động vật với con người.

- Phương thức sản xuất là sự tồn tại và phát triển của loài người. Muốn tồn tại và phát triển đầu tiên con người phải nắm rõ được tư liệu vật chất, để hiểu được thì con người phải nhờ vào quá trình sản xuất vật chất.

- Phương thức sản xuất là nguồn động lực cho sự phát triển và thay đổi chế độ xã hội, quá trình sản xuất không ngừng phát triển nó làm tác động đến phương thức sản xuất làm cho xã hội ngày càng phát triển và vươn xa hơn.

- Phương thức sản xuất là cơ sở tiền đề cho các mối quan hệ xã hội.

Luật Minh Khuê xin gửi tới Quý khách hàng những thông tin cần thiết xoay quanh chủ đề "Vai trò của phương thức sản xuất là gì?Lấy ví dụ chứng minh". Với bài viết trên, chúng tôi hy vọng rằng Quý khách hàng đã trả lời một phần nào những thắc mắc trước đó.

Trong trường hợp bạn còn có bất kỳ câu hỏi liên quan đến vấn đề này hay các vấn đề khác như lao động, hôn nhân và gia đình, doanh nghiệp, bảo hiểm,... cần giải đáp về mặt pháp lý các bạn đừng ngần ngại nhấc máy lên và gọi ngay tới số tổng đài 1900.6162 để được đội ngũ luật sư và chuyên viên tư vấn pháp lý với nhiều năm kinh nghiệm trong nghề. Chúng tôi rất hân hạnh được đồng hành cùng quý khách hàng. Trân trọng!