Mục lục bài viết
1. Bảo vệ ý tưởng theo quy trình của luật sở hữu trí tuệ ?
>> Luật sư tư vấn pháp luật sở hữu trí tuệ , gọi: 1900.6162
Trả lời:
Công ty Luật Minh Khuê đã nhận được câu hỏi của bạn. Cảm ơn bạn đã quan tâm và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Vấn đề của bạn chúng tôi xin được giải đáp như sau:
- Các ý tưởng về quy trình xử lý không được xem là sáng chế bởi lẽ nó thuộc trường hợp loại trừ Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế theo quy định tại Khoản 2 Điều 59 Luật sở hữu trí tuệ: Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính;
Theo quy định tại Điều 12 Luật Sở hữu trí tuệ: Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Điều này có nghĩa là ý tưởng của bạn chỉ có thể được bảo hộ khi và chỉ khi bạn đưa ra các giải pháp cụ thể để hiện thực hóa ý tưởng của mình thành sản phẩm hay quy trình cụ thể (nếu ở dạng quy trình phải chứng minh được ví dụ áp dụng quy trình trong thực tế và kết quả đem lại). Hơn nữa để được bảo hộ là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế sản phẩm của bạn cần phải đáp ứng các yêu cầu tại Điều 58, 60, 61 và 62 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009:
Điều 58. Điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ
1. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có trình độ sáng tạo;
c) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
2. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
Điều 60. Tính mới của sáng chế
1. Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
2. Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
3. Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong các trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày công bố:
a) Sáng chế bị người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này;
b) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này công bố dưới dạng báo cáo khoa học;
c) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức.
Điều 61. Trình độ sáng tạo của sáng chế
Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Điều 62. Khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế
Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài, gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác
2. Ý nghĩa quan trọng của Luật sở hữu trí tuệ
Liên quan tới các quy định về quyền tác giả và quyền liên quan tại Luật Sở hữu trí tuệ, tác giả viết bài này xin đề cập tới giá trị của văn bản pháp luật đã được quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006.
Luật Sở hữu trí tuệ, với các quy định về quyền tác giả và quyền liên quan là thành quả của hoạt động trí tuệ từ việc tổ chức nghiên cứu xây dựng đề án, đến việc xem xét, biểu quyết thông qua của Quốc hội. Có thể dánh giá trị của Luật sở hữu trí tuệ trên các khía cạnh sau:
1. Luật Sở hữu trí tuệ đã kế thừa các tư tưởng lập pháp, giá trị của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan từ các văn bản pháp luật đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Tư tưởng lập pháp tiến bộ, nhân văn về quyền con người của Nhà nước Việt Nam đã được hình thành và thể hiện trong các văn bản pháp luật trước, nay tiếp tục được ghi nhận và cụ thể hóa tại Luật Sở hữu trí tuệ. Bởi lẽ, thực chất của quyền tác giả chính là quyền của con người, là nhân quyền. Trong nhiều quyền của công dân được ghi tại Hiến pháp, các bộ luật và các luật thì, quyền tác giả là một loại quyền đặc biệt. Vì vậy, đối tượng được pháp luật bảo hộ là các quyền nhân thân và quyền tài sản. Khách thể của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, chủ thể quyền chính là công dân - tác giả. Đây là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt quá trình lập pháp về lĩnh vực này ở Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ của họat động lập pháp, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã thể hiện rõ và đầy đủ hơn các quyền của tác giả. Trong đó, quyền tài sản được thể hiện chuẩn xác, đúng nội hàm của quyền này.
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 là văn bản luật được tiếp thu các giá trị từ các quy phạm pháp luật đã kiểm nghiệm trong thực tiễn thi hành. Nhiều nội dung quy định tại các văn bản pháp luật trước đã phù hợp, được thể hiện trong Luật sở hữu trí tuệ, với kỹ thuật lập pháp tiến bộ hơn. Nhiều nội dung giá trị tại các thông tư của Bộ Văn hóa Thông tin, liên bộ ngành đã được nâng lên thành quy phạm của luật sở hữu trí tuệ.
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 còn là văn bản phản ảnh các tổng kết, đúc rút kinh nghiệm quản lý, thực thi tại Việt Nam trong gần 20 năm, kể từ khi Nhà nước triển khai thực hiện công tác quan trọng, mới mẻ và phức tạp này.
2. Luật sở hữu trí tuệ thể hiện sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể sáng tạo với các chủ thể sử dụng và công chúng hưởng thụ.
Khi đề cập tới luật pháp là đề cập tới việc điều chỉnh lợi ích giữa các nhóm cộng đồng. Sự thành công của một trật tự xã hội bắt nguồn trước tiên từ chính việc xác lập các quy tắc xử sự, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận. Theo đó, luật sở hữu trí tuệ đã thể hiện việc xử lý phù hợp các lợi ích của người sáng tạo, nhà sử dụng và công chúng tiêu dùng (hưởng thụ). Các quyền của tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học, các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của mình, các quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, các quyền của tổ chức phát sóng đối với chương trình phát sóng của mình được thể hiện đầy đủ, rõ ràng tại luật sở hữu trí tuệ. Nhưng các giới hạn quyền cũng được đặt ra trong trường hợp tác phẩm đã công bố, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sử dụng có thể tham gia tích cực vào việc đưa tác phẩm tới công chúng, vì lợi ích công cộng hoặc vì chính sách nhân đạo. Công chúng luôn luôn là mục đích phục vụ cuối cùng của các họat động sáng tạo. Họ là người hưởng thụ các giá trị văn học nghệ thuật và thực chất họ là người thanh toán chi phí bản quyền. Thông qua cảm thụ và chi trả thù lao gián tiếp của công chúng, mà tác giả và các nghệ sĩ có thể thấy được giá trị sáng tạo của mình, tiếp tục đầu tư cho sáng tạo. Vì lẽ đó mà quyền của tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng không thể là quyền tuyệt đối.
3. Luật sở hữu trí tuệ đã tương thích với các chuẩn mực bảo hộ quốc tế
Hầu hết các điều khoản đã tương thích với các nội dung tương ứng tại các điều ước quốc tế song phương và đa phương. Trong quá trình nghiên cứu xây dựng dự án Luật sở hữu trí tuệ Ban soạn thảo đã tổ chức nghiên cứu, tham khảo luật mẫu của WIPO, tám điều ước quốc tế về quyền tác giả và quyền liên quan, ba hiệp định song phương giữa Việt Nam - Hoa Kỳ, Việt Nam - Thuỵ Sỹ, Luật của một số quốc gia như Mỹ, Trung Quốc v.v. Ban soan thảo còn nhận được ý kiến tư vấn của chuyên gia WIPO, chuyên gia dự án STAR Việt Nam, các tổ chức quốc tế liên quan như: Liên đoàn quốc tế các nhà soạn nhạc và soạn lời (CISAC), liên đoàn quốc tế các tổ chức ghi âm (IFPI). Việt Nam cũng đã cử các đoàn tham gia các hội thảo quốc tế liên quan đến các nội dung mới của luật pháp quốc tế do WIPO tổ chức. Hoa Kỳ mời một đoàn cán bộ Việt Nam tham gia Ban soạn thảo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đến Hoa Kỳ để trao đổi về Luật này.
Chính vì quá trình tổ chức nghiên cứu, xây dựng, thông qua được thực hiện với sự tư vấn của chuyên gia quốc tế nên Luật sở hữu trí tuệ với các quy định về quyền tác giả và quyền liên quan đã phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Hiện còn một vài quy định tại Luật sở hữu trí tuệ làm cho một số chuyên gia thuộc các quốc gia phân vân. Trước tiên xin được các bạn thông cảm, bởi lẽ Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam phải phù hợp với các đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội Việt Nam. Trong trường hợp có xung đột với các điều ước song phương và đa phương mà Việt Nam là thành viên thì, căn cứ pháp lý để bảo hộ quyền lợi của các tổ chức, cá nhân các nước là thành viên của các điều ước quốc tế là chính các điều ước quốc tế đó.
Với các lý do như trên, chúng ta có thể tin tưởng rằng Luật Sở hữu trí tuệ là công cụ pháp lý hữu hiệu để Việt Nam thực hiện các điều ước quốc tế.
4. Luật sở hữu trí tuệ bảo vệ lợi ích quốc gia
Luật quốc gia đương nhiên phải phản ánh và phù hợp với đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia. Đó là đòi hỏi sống còn của mọi văn bản pháp luật. Luật sở hữu trí tuệ cũng được tổ chức nghiên cứu, thông qua trên quan điểm đó. Tuy nhiên vì là một luật góp phần quan trọng cho việc hội nhập quốc tế không riêng về văn hóa, mà còn là kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư từ nước ngoài. Vì vậy, ngoài thỏa mãn các đòi hỏi điều chỉnh quan hệ xã hội nội tại của quốc gia, nó còn phải đáp ứng các yêu cầu của hội nhập quốc tế. Ban soạn thảo, các cơ quan có thẩm quyền trình, và quốc hội đã coi trọng lợi ích quốc gia thể hiện tại các điều luật. Các quy định luật sở hữu trí tuệ về cơ bản là phù hợp giữa lợi ích quốc gia với các chuẩn mực quốc tế. Trong một số trường hợp không nhiều mặc dù có sự xung đột pháp luật, nhưng Quốc hội đã xuất phát từ điều kiện, đặc điểm cụ thể của đất nước để biểu quyết dân chủ, công khai từng nội dung.
5. Luật Sở hữu trí tuệ là văn bản được công khai trong suốt quá trình soạn thảo đến khi xem xét thông qua; nội dung minh bạch, khả thi.
Dự thảo các lần của Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan được đăng tải trên website: quyền tác giả Việt Nam, được in nhân bản phân phát tại các hội thảo, hội nghị tổ chức lấy ý kiến góp ý. Nó còn được chuyển đến các chuyên gia, một số quốc gia thành viên WTO có yêu cầu, để bình luận về sự phù hợp với luật pháp quốc tế.
Nội dung quy định tại các điều khoản về cơ bản là minh bạch, rõ ràng. Tuy nhiên có một số từ ngữ đã là thông lệ quốc tế, có thể khó hiểu đối với một số người, đã được lý giải tại Nghị định của Chính phủ, đảm bảo cho sự thống nhất khi thi hành.
Hầu hết các quy định được tiếp thu từ các văn bản quy phạm pháp luật cũ, được nâng lên và hoàn thiện, tiếp nhận từ các điều ước quốc tế song phương và đa phương, vì vậy nó chứa đựng khả năng đi vào đời sống để phát huy hiệu quả trong thực tế. Có một số quy định tuy không phải là mới, bởi nó đã được thể hiện tại Bộ Luật dân sự năm 1995, nhưng chưa được thực hiện trong thời gian qua, có thể sẽ là thách thức đói với chúng ta.
Tóm lại, Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực ngày 1/7/2006 là sản phẩm trí tuệ. Nó đã được tổ chức nghiên cứu xây dựng công phu, với sự tham gia của các Hội văn học nghệ thuật, các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, các tổ chức, doanh nghiệp khai thác, sử dụng tác phẩm như các cơ quan báo chí, xuất bản, nhà hát, hãng film, đài phát thanh truyền hình và các cơ quan quản lý, thực thi từ trung ương tới địa phương. Kết quả đó có vai trò quan trọng của các cơ quan giúp việc của Quốc hội, đặc biệt là tinh thần làm việc nghiêm túc, dân chủ và có trách nhiệm cao của các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XI./.
(MKLAW FIRM: Biên tập)
3. Tính thương mại của quyền sở hữu công nghiệp
1. Quyền SHCN thể hiện những đặc tính thương mại sau đây:
Thứ nhất, các đối tượng SHCN là một trong những yếu tố cấu thành hàng hoá, dịch vụ.
Thứ hai, các đối tượng SHCN được ứng dụng trong hoạt động kinh tế - thương mại.
Bằng phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích khi người chủ được sở hữu, họ sẽ đầu tư để biến nó thành một sản phẩm hoặc một quy trình có khả năng ứng dụng trong công nghiệp đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực may mặc (thời trang), chế tạo xe máy, ô tô, hàng điện tử, …. Nhãn hiệu hàng hoá là công cụ cho phép phân biệt một sản phẩm với các sản phẩm tương tự khác. Chỉ dẫn địa lý của sản phẩm cũng đương nhiên mang mục đích thương mại. Nó tạo ra niềm tin ở người tiêu dùng, đồng thời giúp cho nhà sản xuất phát huy tốt hơn thế mạnh của mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Chẳng hạn, người tiêu dùng Châu Âu có một thói quen văn hoá về sử dụng sản phẩm có tên gọi xuất xứ hoặc chỉ dẫn địa lý. Một sản phẩm mang tên địa lý khác với sản phẩm thông thường sẽ được người tiêu dùng sẵn sàng trả giá đắt hơn. Chỉ dẫn địa lý được đặc biệt quan tâm trong các ngành công nghiệp thực phẩm và nông nghiệp, nhất là các ngành sản xuất ruợu vang và đồ uống có cồn. Giống cây trồng mới được ứng dụng trong công nghiệp thực phẩm và nông nghiệp. Mạch tích hợp và thiết kế bố trí mạch tích hợp là cốt lõi của ngành công nghiệp vi điện tử.
Thứ ba, các đối tượng SHCN là một yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh trong thương mại.
Những cải tạo ra khả năng cạnh tranh của sản phẩm chính là các đối tượng SHCN. Các đối tượng SHCN là công cụ cho phép chủ sở hữu đầu tư nỗ lực để tạo nên và duy trì một lợi thế cạnh tranh, mà một phần dựa trên khả năng sử dụng, cũng như khả năng ngăn cản người khác sử dụng các đối tượng SHCN của mình. Lợi thế cạnh tranh ngày nay không còn nằm chủ yếu ở tài nguyên thiên nhiên hoặc lao động rẻ, mà nghiêng về tiềm lực tri thức và công nghệ, được chứa đựng chủ yếu trong các đối tượng SHCN.
Thứ tư, các đối tượng SHCN là một loại tài sản là "hàng hoá đặc biệt".
Với giá trị kinh tế to lớn, các đối tượng SHCN được sử dụng làm vốn góp trong công ty, làm tài sản thế chấp vay vốn, có thể cho thuê, chuyển nhượng quyền sở hữu, hoặc dùng để định giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán,…
Các đối tượng SHCN trở thành "hàng hoá" thông qua các hoạt động chuyển giao quyền SHCN, theo đó chủ sở hữu có khả năng thu lợi bằng cách cho phép người khác khai thác các đối tượng SHCN được bảo hộ.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của Nhà nước Việt Nam đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm hình thành từng bước vững chắc thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường sức lao động, thị trường khoa học, công nghệ và các loại thị trường khác của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Về SHTT, Chiến lược nhấn mạnh việc thực hiện chính sách bảo hộ thích đáng, coi lao động trí tuệ và sáng tạo là một loại "hàng hoá đặc biệt” trong nền kinh tế thị trường, phải được trả giá tương xứng và phải được bảo hộ thích đáng.
Thứ năm, quyền SHCN có thẻ bị lạm dụng để cản trở thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế.
Quyền SHCN là độc quyền của chủ sở hữu, do đó đây là một ngoại lệ của nguyên tắc tự do kinh doanh. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến nguyên tắc tự do cạnh tranh và tự do hoá thương mại.
Trên thực tế, các chủ thể quyền và các quốc gia có nhiều cách lạm dụng việc bảo hộ quyền SHCN để cản trở thươngmại. Một số đó là vấn đề quyền chống nhập khẩu đối tượng SHTT được bảo hộ, hay còn gọi là quyền chống nhập khẩu song song.
Theo pháp luật của nhiều nước, chủ thể quyền có quyền ngăn cản người thứ ba nhập khẩu sản phẩm được bảo họ, bất kể hàng nhập khẩu đến từ nguồn nào, hoặc bất kể hàng nhập khẩu có phải do chủ sở hữu đưa ra thị trường hay không. Nghĩa là, pháp luật của nước này quy định cấm nhập khẩu song song, để bảo vệ thế độc quyền của chủ sở hữu đối tượng SHCN. Tuy nhiên, theo quan điểm của một số nước khác, đặc biệt là các nước đang phát triển, thì đây là sự lạm dụng quyền SHCN để cản trở thương mại.
Bên cạnh việc sử dụng quyền chống nhập khẩu song song,các nước còn có nhiều cách khác để lạm dụng quyền SHCN. Một số quốc gia có nền kinh tế phát triển đã đẩy mạnh việc đăng ký bảo hộ sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá ở trong nước cũng như ở nước ngoài chỉ nhằm mục đích “phòng ngừa". Việc làm đó có thể dẫn đến hậu quả làm hạn chế khả năng sáng tạo của các đối thủ cạnh tranh, do đó vi phạm nguyên tắc tự do cạnh tranh.
Như vậy, trong xu thế tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá kinh tế, các rào cản về thuế quan sẽ giảm bớt, nhưng thay vào đó sẽ là các rào cản phi thuế quan ngày càng tinh vi, trong đó có rào cản về quyền SHTT.
(MINH KHUE LAW FIRM sưu tầm)
4. Một số vấn đề về pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Dới đây, chúng tôi sẽ khái lược một số nội dung chính của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
I. Một số nội dung chính của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
1. Các lĩnh vực được Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Theo quy định của pháp luật thì Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong các lĩnh vực sau:
- Khoa học;
- Kỹ thuật;
- Công nghệ;
- Thương mại và các lĩnh vực khác do pháp luật quy định.
2. Các đối tượng được Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Đối tượng được Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm:
- Sáng chế (là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội)
- Giải pháp hữu ích (là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội)
- Kiểu dáng công nghiệp (là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp)
- Nhãn hiệu hàng hoá (là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc)
- Tên gọi xuất xứ hàng hoá (là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó)
- Tên thương mại (là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh)
- Bí mật kinh doanh (là thành quả đầu tư dưới dạng thông tin có các điều kiện kèm theo)
- Chỉ dẫn địa lý (là thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hoá đáp ứng đủ các điều kiện)
3. Người được Nhà nước, pháp luật bảo hộ quyền SHCN
Cá nhân, tổ chức được Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp phải là:
1- Người là chủ sở hữu các đối tượng SHCN;
2- Người là tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp;
3- Người có quyền sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, người tiến hành hoạt động kinh doanh dới tên thương mại đó ;
4- Người có quyền của người đã sử dụng trước sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp;
5- Người có quyền sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp theo hợp đồng hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
5. Đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 (Luật sửa đổi bổ sung luật sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12) thì:
"Điều 3. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ ....
2. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý."
Bạn nói bạn muốn sản xuất một loại mì và bạn muốn đi đăng ký quyền sở hữu trí tuệ thì trong trường hợp này loại mì của bạn dễ bị vi phạm vào quyền sở hữu trí tuệ đối với kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mai, chỉ dẫn địa lý
Trong đó các khái niệm trên được quy định tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:
"Điều 4. Giải thích từ ngữ...
13. Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
16. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.
21. Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
22. Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.
23. Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh."
Theo dữ liệu bạn đưa ra thì bạn chỉ sử dụng nguyên liệu giống một hãng mỳ thì như vậy không bị coi là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vì nguyên liệu thì có thể giống nhau nhưng cách tạo ra sản phẩm lại hoàn toàn khác nhau do cách chế biến khác nhau. Chỉ khi bạn sử dụng đúng công thức chế biến và đúng thành phần của nguyên liệu để sản xuất giống y hệt một hãng mỳ thì bạn mới bị coi là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực vi phạm về bí mật kinh doanh. Tuy nhiên khi bạn đăng ký bảo hộ cho sản phẩm của mình thì bạn cũng nên tránh vi phạm vào kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm, nhãn hiệu sản phẩm, tên thương mại của sản phẩm. Bởi nếu bạn chỉ cần vi phạm vào bất cứ quyền sở hữu trí tuệ nào thuộc quyền sở hữu công nghiệp thì bạn đều vi phạm quy định của Luật sở hứu trí tuệ.
Mọi vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi số: 1900.6162 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.