Sau đó T có tặng em 1 chiếc nhẫn vàng. Khi không quen nhau em cũng mang trả mà T vẫn không nhận. Hiện tại T quen người mới và kể lại việc em với T hồi trước, xong bạn gái mới của người yêu cũ đã gọi điện, nhắn tin chửi em rất thậm tệ, chửi em, vu khống cho em giật tiền anh T, dụ anh T làm việc này việc kia. Còn lấy cả hình của em đăng lên facebook chế giễu, bôi nhọ danh dự của em với tiêu đề rất thiếu tế nhị, thô tục và không hề đúng sự thật còn đặt điều nói xấu em dưới những bình luận. Thật sự em cảm thấy rất nhục nhã, không dám đối mặt với gia đình em, không buồn ăn uống luôn, em luôn cảm thấy dằn vặt và lo lắng. Luật sư cho em hỏi, với những điều trên em có thể tố cáo những hành vi của họ không. Số tiền đó em có nên trả lại, nếu không trả thì có bị sao không. Nếu em tố cáo thì họ phải chịu tội gì ạ. Cảm ơn luật sư.

Người gửi: N.N.H

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Hình sự 2015

Bộ luật dân sự 2015

Nghị định 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện

2. Nội dung tư vấn:

Theo thông tin mà bạn đã cung cấp, bạn của bạn đang bị bạn giá mới của người yêu cũ nói xấu và bôi nhọ danh dự trên mạng xã hội facebook, bạn đang băn khoăn không biết giải quyết như thế nào và người đó có phải chịu trách nhiệm hình sự không. Với những câu hỏi đó, chúng tôi xin đưa ra các ý kiến như sau:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, hành vi đặt điều nói xấu người khác trên mạng xã hội có thể xử lý vi phạm hành chính, chịu trách nhiệm dân sự, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngày nay, với sự phát triển của thông tin truyền thông ngày càng nhanh chóng, thì Facebook nói riêng hay các trang mạng xã hội nói chung đã không còn đơn thuần là không gian để mỗi người chia sẻ sở thích, hoạt động riêng tư, quan điểm sống. Bên cạnh những mặt tích cực, Facebook hiện đã và đang trở thành "công cụ" đắc lực để một số người lợi dụng nhằm xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu, bôi nhọ uy tín của người khác...

Các cơ quan quản lý cũng đang tìm cách ngăn chặn, xử lý. Vậy dưới góc độ pháp lý, hình thức xử lý các hành vi trên như thế nào ?

Theo quy định của pháp luật hiện hành, hành vi nói xấu người khác trên mạng xã hội có thể xử lý vi phạm hành chính, chịu trách nhiệm dân sự, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự.

Về xử lý hành chính: Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 và khoản 3, Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ-CPngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện thì người có hành vi “cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác” sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Theo quy định tại Điều 34, Bộ luật Dân sự 2015 thì người bị xâm phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm bởi hành vi bêu rếu, nói xấu trên Facebook có quyền yêu cầu yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.

Điều 34. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín

1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.

4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.

5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.

Căn cứ Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

Về xử lý hình sự: Theo quy định tại Điều 156 Bộ Luật hình sự 2015 quy định về tội vu khống

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

đ) Đối với người đang thi hành công vụ;

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;

h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Vì động cơ đê hèn;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

c) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Trong đó, hành vi bịa đặt nói xấu được hiểu là việc tự nghĩ ra một điều gì đó mà không có thật đối với người khác để bôi nhọ, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc bịa đặt này có thể bằng nhiều hình thức khác nhau như: Sao chép làm nhiều bản gửi đi cho nhiều người qua message (tin nhắn), kể lại cho người khác nghe, đăng status (trạng thái), comment (lời bình) trên Facebook...

Như vây, bạn có thể gửi đơn tố cáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan cảnh sát điều tra, viện kiểm sát nhân dân các cấp, ủy ban nhân dân các cấp để đề nghị xử lý các người đó theo quy định của pháp luật. Còn số tiền mà T đã cho bạn, có có quyền không trả lại bởi số tiền đó đã được T đồng ý cho bạn.

Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật Dân sự - Công ty luật Minh Khuê