1. Định nghĩa về mua bán người (buôn người)

Theo đoạn a Điều 3 của Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị nạn mua bán người đã định nghĩa mua bán người (hay buôn bán người) là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt hay lạm dụng quyền lực hoặc hoàn cảnh dễ bị tổn thương, hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người để kiểm soát những người khác. Hành vi bóc lột bao gồm: việc bóc lột mại dâm người khác hoặc các hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc lấy đi các bộ phận cơ thể.
Hoặc theo định nghĩa của Tổ chức chống chế độ nô lệ [1], nạn buôn người liên quan đến việc tuyển dụng, chứa chấp hoặc bóc lột nạn nhân thông qua việc sử dụng bạo lực, lừa dối hoặc ép buộc họ phải làm việc trái ý muốn. Buôn bán người được xem là một quá trình nô lệ hóa nạn nhân. Nạn nhân có thể bị trao đổi, mua bán dưới nhiều hình thức để phục vụ các mục đích khác nhau như mại dâm, cưỡng bức lao động, cưỡng bức phạm tội, nô lệ trong gia đình, cưỡng ép hôn nhân và lấy nội tạng…

Như vậy, có thể hiểu nạn mua bán người (hay buôn người) là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người nhằm thu lợi nhuận bất hợp pháp từ việc bóc lộc các nạn nhân dưới nhiều hình thức khác nhau như bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy và buôn bán nội tạng…

2. Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em

Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (ACTIP) được các nhà lãnh đạo ASEAN ký kết vào ngày 21/11/2015 tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 27 tại Kuala Lumpur - Malaysia, Công ước có hiệu lực khi có ít nhất 6 quốc gia phê chuẩn. Ngày 08/3/2017, Công ước này chính thức phát sinh hiệu lực khi Philippines là quốc gia thứ 6 phê chuẩn. Tính tới thời điểm hiện nay đã có 9 quốc gia thành viên ASEAN phê chuẩn ACTIP[2].

ACTIP là công ước ràng buộc tầm khu vực duy nhất về mua bán người bên ngoài châu Âu. Văn bản này cũng thể hiện cam kết mạnh mẽ và một quyết tâm chung chưa từng có của các quốc gia thành viên trong cuộc đấu tranh chống nạn mua bán người. Ngoài Lời nói đầu, Công ước ACTIP gồm 7 chương, 31 điều, quy định mục đích, phạm vi áp dụng, quyền và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên, quyền tài phán, hợp tác quốc tế trong ngăn ngừa, chống hành vi mua bán người, thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua hội đàm và thương lượng giữa các quốc gia thành viên thông qua kênh ngoại giao hoặc các biện pháp hòa bình khác nhằm đạt được thỏa thuận.

ACTIP là cơ sở pháp lý quan trọng, chuyên biệt về phòng, chống buôn bán người trong khu vực. Mục đích của việc ký kết Công ước là tạo cơ sở pháp lý, nâng cao hiệu quả hợp tác giữa các thành viên ASEAN trong phòng, chống buôn bán người và bảo vệ nạn nhân bị buôn bán. Theo đó, nội dung Công ước tập trung điều chỉnh 06 vấn đề chính bao gồm: giải thích thuật ngữ; hình sự hóa; phòng ngừa buôn bán người; bảo vệ, hồi hương và tiếp nhận nạn nhân; thực thi pháp luật và hợp tác quốc tế.

Đồng thời với việc ký kết ACTIP, ngày 21/11/2015 các nước thành viên ASEAN cũng đã thông qua Kế hoạch hành động ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em. Văn kiện này thể hiện quyết tâm giữa các quốc gia thành viên phối hợp hành động trong phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi buôn bán người và các hành vi vi phạm có liên quan khác. Mục đích của việc thông qua văn kiện nhằm củng cố nguyên tắc pháp chế và kiểm soát biên giới giữa các nước thành viên ASEAN; tăng cường nỗ lực khởi tố các vụ án về buôn bán người và tăng cường hợp tác khu vực dựa trên trách nhiệm được chia sẻ nhằm giải quyết hiệu quả tội phạm buôn bán người thông qua các hành động cụ thể: phòng ngừa buôn bán người; bảo vệ nạn nhân bị buôn bán; thực thi pháp luật và truy cứu trách nhiệm hình sự tội phạm buôn bán người; hợp tác và điều phối khu vực và quốc tế về phòng chống buôn bán người.

Tại Việt Nam, ngày 13/12/2016, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 2674/2016/QĐ-CTN về việc phê chuẩn Công ước ACTIP và Công ước chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 08/3/2017. Việc phê chuẩn Công ước góp phần thể hiện vai trò tích cực, chủ động và khẳng định cam kết của Việt Nam cũng như khu vực ASEAN trong nỗ lực tăng cường hợp tác phòng, chống hành vi mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; đồng thời góp phần vào việc triển khai Tuyên bố về tầm nhìn Cộng đồng ASEAN năm 2025 và Kế hoạch Hành động cộng đồng ASEAN giai đoạn 2015-2025. Việc chính thức trở thành thành viên Công ước ACTIP không chỉ có tác động tích cực đối với Việt Nam và khu vực ASEAN mà còn mang lại nhiều lợi ích, góp phần khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

3. Tội phạm buôn bán người và buôn bán trẻ em theo quy định tại ACTIP

Theo quy định tại khoản a Điều 2 Công ước ACTIP, buôn bán người được hiểu là “việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hoặc lợi ích để đạt được sự đồng ý của người có quyền kiểm soát người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ở mức tối thiểu, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc việc lấy các bộ phận cơ thể”. Như vậy, theo quy định tại khoản a Điều 2 Công ước ACTIP, tội phạm buôn bán người được cấu thành bởi 3 yếu tố cơ bản sau:

- Hành vi: thực hiện một trong các hành vi tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, tiếp nhận.

- Thủ đoạn: đe dọa, sử dụng bạo lực, ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương (lợi dụng điểm yếu của nạn nhân); cho hoặc nhận tiền hay lợi ích để đạt được sự đồng ý của người có quyền kiểm soát đối với người khác (bố, mẹ, ông, bà, anh, chị… nạn nhân).

- Mục đích: bóc lột nạn nhân (bóc lột có thể là khai thác sức lao động hoặc khai thác bản thân nạn nhân) bao gồm các hình thức bóc lột mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự như khổ sai hay lấy các bộ phận của cơ thể.

Việc buôn bán trẻ em được quy định tại khoản c Điều 2 Công ước, theo đó, “việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận trẻ em nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là buôn bán người ngay cả khi việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ cách thức nào được quy định tại điểm (a) của Điều này.”

Như vậy, theo quy định tại ACTIP thì định nghĩa về buôn bán trẻ em có điểm khác biệt so với định nghĩa về buôn bán người. Cụ thể, buôn bán trẻ em chỉ cần thỏa mãn và chỉ ra “một hành động” trong số các hành động như tuyển mộ, mua và bán hay nhằm “mục đích” bóc lột là đủ. Nói cách khác, buôn bán trẻ em sẽ cấu thành tội phạm khi trẻ em là đối tượng của việc tuyển mộ hoặc vận chuyển nhằm mục đích bóc lột bởi lẽ chưa cần phải chỉ ra yếu tố ép buộc, lừa gạt hoặc bất kỳ biện pháp nào khác được sử dụng thì đã rất dễ dàng xác định tội phạm có nạn nhân là trẻ em bị buôn bán và đối tượng thực hiện hành vi này. Cụ thể, buôn bán trẻ em được cấu thành bởi 2 yếu tố cơ bản sau:

- Hành vi: thực hiện một trong các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, tiếp nhận.

- Mục đích: bóc lột nạn nhân (bóc lột có thể là khai thác sức lao động hoặc khai thác bản thân nạn nhân) bao gồm các hình thức bóc lột mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự như khổ sai hay lấy các bộ phận của cơ thể (nạn nhân trẻ em theo quy định tại khoản d Điều 2 ACTIP là người dưới 18 tuổi). Đây là định nghĩa phù hợp với quy định tại Nghị định thư về ngăn ngừa, trấn áp và trừng trị buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về Phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Nghị định thư Palermo).

Bên cạnh việc đưa ra định nghĩa tội phạm, yêu cầu quốc gia thành viên có nghĩa vụ hình sự hóa các hành vi liên quan đến tội phạm như: hình sự hóa việc tham gia vào một nhóm tội phạm có tổ chức (Điều 6); hình sự hóa hành vi hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có (Điều 7); hình sự hóa hành vi tham nhũng (Điều 8); hình sự hóa hành vi cản trở hoạt động tư pháp (Điều 9).

4. Quy định về tội mua bán người theo Bộ Luật Hình sự hiện hành?

Tội mua bán người là tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp trong đó người thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến các quyền cơ bản của nạn nhân như quyền tự do, quyền con người,…coi con người như một món hàng để thực hiện việc trao đổi, mua bán với mục đích là kiếm lợi nhuận.

Theo quy định tại Điều 150 – Bộ luật hình sự về tội mua bán người được quy định như sau:

Điều 150. Tội mua bán người

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;

b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Vì động cơ đê hèn;

c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;

đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

e) Đối với từ 02 đến 05 người;

g) Phạm tội 02 lần trở lên.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;

đ) Đối với 06 người trở lên;

e) Tái phạm nguy hiểm.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

5. Các yếu tố cấu thành tội mua bán người

Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:

–  Có hành vi mua bán người để thu lợi bất chính. Hành vi này thể hiện dưới hình thức dùng tiền, tài sản hoặc các phương tiện thanh toán khác đê đổi lấy người (nhằm đem bán) hoặc ngược lại để thu lợi.

Trên thực tế việc mua bán người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, thông thường được thực hiện một cách lén lút với các hình thức thanh toán đa dạng có thể bằng tiền, bằng tài sản khác, bằng hàng hoá…

–  Người bị hại phải là người đạt từ đủ mười sáu tuổi trở lên. Trường hợp người bị hại dưới mười sáu tuổi thì cấu thành tội mua bán trẻ em.

Lưu ý:

+ Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện xong hành vi mua bán người. Nếu việc mua bán người chưa xảy ra thì được coi là phạm tội chưa đạt.

+ Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không phụ thuộc vào việc bị hại có biết hay không biết mình bị mua bán.

Khách thể:

Hành vi phạm tội nêu trên xâm phạm đến quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm của con người.

Mặt chủ quan:

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.

Mục đích tội phạm vì vụ lợi (để thu lợi bất chính), tuy nhiên đây không phải là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

Chủ thể:

Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.

Khung hình phạt tội mua bán người

Mức hình phạt đối với tội phạm này được chia thành hai các khung cụ thể như sau:

– Khung một (khoản 1)

Có mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Được áp dụng đối với trường hợp có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan như:

+ Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;

+ Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

+ Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.

– Khung hai (khoản 2)

Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm, mức phạt này áp dụng đối với các trường hợp có hành vi như sau:

+ Có tổ chức;

+ Vì động cơ đê hèn;

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;…

– Khung 3 (khoản 3)

Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm trong các trường hợp như sau:

+ Có tính chất chuyên nghiệp;

+ Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;…

– Hình phạt bổ sung (khoản 4)

Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.