1. Người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thế nào khi bán phụ nữ qua Trung Quốc khiến nạn nhân tự sát ?

Trách nhiệm hình sự đối với người bán phụ nữ qua Trung Quốc, đẩy nạn nhân đến hành vi tự sát, được quy định cụ thể tại điểm d khoản 3 Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017. Tội phạm mua bán người đối mặt với các mức hình phạt khác nhau tùy thuộc vào tính chất và hậu quả của hành vi phạm tội.

Tội mua bán người được quy định tại Điều 150 và Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã mô tả các hành vi khách quan, tương đồng với công ước quốc tế về mua bán người. Trong đó, mua bán người có nghĩa là mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách thức sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng thủ đoạn khác như ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt. Hành vi chuyển giao người đã và sẽ nhận tiền, lợi ích vật chất vì mục đích bóc lột được coi là hành vi thể hiện bản chất của tội mua bán người. Trong đó, người chuyển giao đã và sẽ nhận tiền, lợi ích vật chất hoặc phi vật chất vì mục đích bóc lột là những người thực hành tội phạm. Hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người là những hành vi được coi là buôn bán người, với vai trò đồng phạm.

Theo quy định, những người có hành vi nêu trên bằng việc bán phụ nữ qua Trung Quốc sau đó người phụ nữ bị bóc lột cả về sức khỏe lẫn tình dục hoặc họ bị đe dọa bằng vũ lực, thủ đoạn khác khiến cho họ túng quẫn và tự sát thì người phạm tội này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo Điều 150 của Bộ luật Hình sự.

Trong trường hợp hành vi bán phụ nữ dẫn đến cái chết hoặc tự sát của nạn nhân, người phạm tội có thể phải đối mặt với mức án từ 12 năm đến 20 năm tù giam. Điều này áp dụng đặc biệt đối với những trường hợp có tính chất nghiêm trọng, như đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, gây tổn thương cơ thể nghiêm trọng (61% trở lên), hoặc liên quan đến việc gây chết hoặc tự sát của nạn nhân.

Ngoài hình phạt tù, người phạm tội còn có thể bị áp dụng các biện pháp trừng phạt khác như phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc thậm chí tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của họ.

Như vậy, Theo quy định trên, người bán phụ nữ qua Trung Quốc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người tại Điều 150 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp người bán phụ nữ qua Trung Quốc dẫn đến việc nạn nhân tự sát thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

Đồng thời người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bán phụ nữ qua Trung Quốc, đặc biệt trong những trường hợp gây tổn thương nghiêm trọng hoặc cái chết của nạn nhân, được điều chỉnh một cách nghiêm ngặt và minh bạch trong hệ thống pháp luật

 

2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bán phụ nữ qua Trung Quốc khiến nạn nhân tự sát là bao lâu?

Trách nhiệm hình sự đối với người bán phụ nữ qua Trung Quốc, dẫn đến cái chết tự sát của nạn nhân, được xác định qua quy định của Bộ luật Hình sự 2015, được điều chỉnh thông qua Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, cụ thể về phân loại tội phạm và thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tội phạm được phân loại theo mức độ nguy hiểm cho xã hội, từ ít nghiêm trọng đến đặc biệt nghiêm trọng. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định dựa trên tính chất của tội phạm, với các mức thời gian khác nhau: 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng, 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng, và 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trong trường hợp người bán phụ nữ qua Trung Quốc dẫn đến nạn nhân tự sát có mức khung hình phạt cao nhất là 20 năm, đây là khung hình phạt áp dụng với tội đặc biệt nghiêm trọng. Đây cũng là thời hiệu xác định truy cứu trách nhiệm hình sự, và khi hết thời hạn này, người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa. Có nghĩa, thời hiệu để khởi tố đối với tội được quy định tại Điều 150 cao nhất là 20 năm, vì vậy thời hiệu để khởi tố đối với tội đặc biệt nghiêm trọng cũng là 20 năm.

Lưu ý rằng, nếu trong thời gian thực hiện án phạt, người phạm tội cố tình trốn tránh và trở thành đối tượng truy nã, thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ tính lại từ ngày người này ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

Tóm lại, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bán phụ nữ qua Trung Quốc, dẫn đến cái chết tự sát của nạn nhân, được xác định theo quy định cụ thể của pháp luật, đảm bảo sự công bằng và răn đe trước hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng này

 

3. Có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người không tố giác người bán phụ nữ qua Trung Quốc khiến nạn nhân tự sát

Theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015, được điều chỉnh thông qua Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, việc người không tố giác người bán phụ nữ qua Trung Quốc dẫn đến việc nạn nhân tự sát có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không đã được rõ ràng quy định tại Điều 19 của Bộ luật này. Quy định này không chỉ xác định trách nhiệm của những người gần gũi với tội phạm mà còn đặt ra các tiêu chuẩn rõ ràng về việc không tố giác tội phạm.

Theo Điều 19, bất kỳ cá nhân nào biết rõ về hành vi phạm tội đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, sẽ chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm, như quy định tại Điều 390 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, có sự phân biệt đối xử trong việc áp dụng trách nhiệm này đối với các thành viên trong gia đình hoặc người bào chữa.

Cụ thể, theo khoản 2 của Điều 19, những người không tố giác, bao gồm ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ khi việc không tố giác liên quan đến các tội phạm quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Điều này đồng nghĩa với việc không tố giác trong trường hợp này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ khi hành vi không tố giác liên quan đến các tội phạm cụ thể.

Đối với người bào chữa, theo khoản 3 của Điều 19, họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự trừ khi việc không tố giác liên quan đến các tội phạm quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà chính người mà họ bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện và người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.

Như vậy, việc người không tố giác người bán phụ nữ qua Trung Quốc dẫn đến việc nạn nhân tự sát vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhất là khi hành vi không tố giác liên quan đến các tội phạm cụ thể được quy định trong pháp luật. Điều này đảm bảo tính công bằng và nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong việc ngăn chặn và xử lý các hành vi phạm tội nghiêm trọng

Bài viết liên quan: Tội mua bán người theo luật hình sự của một số nước trên thế giới

Nội dung trên đây chỉ mang tính chất tham khảo. Trường hợp nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến theo số điện thoại 19006162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc.

Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách!