1. Giám sát xã hội là gì?

Giám sát xã hội đối với các cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, phương tiện truyền thông, các tập thể lao động, cộng đồng hoặc cá nhân đối với tổ chức bộ máy và hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, các sở, phòng, ban, nhằm bảo đảm cho các tổ chức này thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.

 

2. Pháp luật về giám sát xã hội là gì?

Pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan HCNN là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động giám sát của chủ thể thực hiện quyền giám sát của xã hội đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan HCNN nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý HCNN, bảo vệ quyền, lợi ích của nhà nước, xã hội và cá nhân, tổ chức. Nội dung điều chỉnh pháp luật về giám sát xã hội đối với các cơ quan HCNN là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về thẩm quyền giám sát của các chủ thể giám sát xã hội; đối tượng chịu sự giám sát; phạm vi giám sát; hình thức và phương pháp giám sát; trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát.

 

3. Hoạt động giám sát xã hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan HCNN là gì?

Hoạt động giám sát xã hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước là theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị của các cá nhân hay cộng đồng dân cư trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, báo chí, phương tiện truyền thông và các tập thể lao động đối với hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp, các sở, phòng, ban, nhằm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Để hoạt động giám sát xã hội có hiệu quả, nhiệm vụ trước mắt là hoàn thiện thể chế pháp lý về giám sát xã hội đối với các cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

 

4. Đặc điểm của hoạt động “giám sát xã hội”

Thứ nhất, giám sát xã hội không mang tính quyền lực nhà nước. Đây là đặc điểm thể hiện sự khác biệt giữa giám sát xã hội với giám sát nhà nước. Hoạt động giám sát nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Hoạt động này được thực hiện theo kế hoạch như một nghĩa vụ của chủ thể giám sát với đối tượng bị giám sát. Trong khi đó, giám sát xã hội do các chủ thể không mang quyền lực nhà nước thực hiện, như: Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, công dân. Giám sát xã hội biểu hiện dưới hình thức theo dõi, phát hiện, đánh giá, nhận xét, phản biện, kiến nghị, đề nghị những vấn đề liên quan đến hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Mặc dù không thể hiện tính quyền lực nhà nước, nhưng giám sát xã hội có tác dụng rất lớn bởi các kiến nghị, đề nghị, tham vấn chính xác và phù hợp sẽ tạo ra sức mạnh dư luận xã hội, có thể dẫn đến những sửa đổi, điều chỉnh đối với chính sách, pháp luật, dự án kinh tế - xã hội. Giám sát xã hội có phạm vi rộng hơn so với giám sát trong bộ máy nhà nước, hoạt động giám sát này không chỉ dựa trên cơ sở pháp luật, mà còn xem xét dưới góc độ đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, lối sống của cán bộ, công chức, viên chức, nên kết quả giám sát đem lại hiệu quả cao đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước và những người làm việc trong các cơ quan này.

Thứ hai, giám sát xã hội thể hiện tính khách quan, độc lập, công khai. Đặc điểm này xuất phát từ lý do các chủ thể giám sát đứng ở bên ngoài đối tượng bị giám sát, nên việc giám sát được thực hiện một cách toàn diện, sự đánh giá, nhận xét, kết luận đảm bảo tính khách quan trong việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Mục đích của hoạt động giám sát xã hội không phải tự thân vì một nhóm người hay cá nhân nào, mà vì lợi ích chung của cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Hoạt động này không bị ràng buộc bởi các quan hệ phát sinh trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, không bị chi phối bởi các lợi ích kinh tế, nên hoạt động giám sát xã hội thể hiện tính khách quan, công khai trong việc xem xét, đánh giá đối tượng bị giám sát.

Thứ ba, giám sát xã hội có tính linh hoạt. Hoạt động này có sự quy tụ nhiều chủ thể thực hiện giám sát, trong đó có các chuyên gia, các đại biểu tiêu biểu cho các tầng lớp nhân dân, có trình độ chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… nên hoạt động giám sát xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng và linh hoạt. Nhờ đó, các hoạt động giám sát xã hội vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp, vừa thể hiện tính xã hội - nghề nghiệp trong quá trình giám sát việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ tư, giám sát xã hội bổ trợ cho hoạt động giám sát nhà nước. Trong chế độ chính trị nhất nguyên, giám sát xã hội không nhằm mục đích kiềm chế hay đối trọng với hoạt động giám sát nhà nước, mà ngược lại nó bổ trợ cho hoạt động giám sát của nhà nước đạt hiệu quả. Thông qua mối quan hệ giữa các chủ thể giám sát xã hội, các chủ thể thực hiện giám sát nhà nước gồm: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp sẽ kịp thời phát hiện các hành vi sai phạm trong quá trình thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước và những cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan này như hành vi cửa quyền, hách dịch, tham nhũng… Từ đó, kịp thời kiến nghị các giải pháp xử lý để trừng trị, răn đe, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của lực lượng thi hành công vụ, góp phần làm trong sạch bộ máy quản lý.

 

5. Vai trò của pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan HCNN

Để hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, pháp luật về giám sát có vai trò rất quan trọng.

Thứ nhất, pháp luật về giám sát xã hội đối với cơ quan HCNN thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền làm chủ của nhân dân đối với Nhà nước nói chung và hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan HCNN nói riêng.

Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đó là quan điểm và mục tiêu nhất quán của Đảng ta. Trong thời kỳ đổi mới, qua các kỳ Đại hội Đảng đã tiếp tục khẳng định và phát triển nguyên tắc đó bằng việc đề cao vai trò giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan HCNN nói riêng. Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW về Ban hành quy chế “Giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội” và Quyết định số 218-QĐ/TW quy định “MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” nhằm không ngừng khẳng định và đề cao quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục đề ra yêu cầu: “Tổ chức có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên”[1]..

Thứ hai, pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan HCNN là cơ sở pháp lý góp phần đảm bảo cho hoạt động của cơ quan HCNN hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý hành chính. Pháp luật về giám sát đối với cơ quan HCNN, góp phần thực hiện đúng các chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của các cơ quan hành chính. Pháp luật giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan HCNN tạo ra cơ chế để người dân giám sát đối với quy trình ban hành và nội dung của các quyết định hành chính ở các cơ quan HCNN, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lý; giám sát hành vi hành chính của người có thẩm quyền, bảo đảm hành vi hành chính đó được thực hiện trên cơ sở pháp luật, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Pháp luật điều chỉnh hoạt động giám sát nhân dân đối UBND các cấp, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động chấp hành các văn bản pháp luật, nghị quyết, các quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên và văn bản, nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) và UBND các cấp. Pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan HCNN tạo ra cơ chế để nhân dân giám sát việc thực thi nhiệm vụ của CBCC trong các cơ quan hành chính, bảo đảm hiệu quả của việc thực hiện nhiệm vụ quản lý HCNN trên tất cả các lĩnh vực. Giám sát xã hội góp phần đảm bảo duy trì sự thống nhất, kiên định về bản chất cũng như mục tiêu, định hướng của quyền lực nhà nước.

Thứ ba, pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan HCNN thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa nhà nước và công dân. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước luôn phải tiếp cận và giải quyết các vấn đề của dân với nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Giám sát xã hội tuy không mang tính quyền lực pháp lý nhưng có tác dụng phòng ngừa, góp phần ngăn chặn có hiệu quả hành vi vi phạm pháp luật và kỷ luật nhà nước từ phía cơ quan HCNN. Trong quá trình giám sát xã hội, sự tiếp thu của cơ quan nhà nước đối với các nhận xét, kiến nghị là cơ sở quan trọng để hoàn thiện pháp luật về giám sát xã hội đối với cơ quan HCNN.

Thứ tư, pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan HCNN góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, hiện đại, góp phần đấu tranh phòng chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng và các hành vi tiêu cực khác trong cơ quan HCNN.

Nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách nền HCNN, pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan HCNN là một trong những yếu tố cấu thành nền HCNN. Giám sát đối với cơ quan HCNN về thực chất là giám sát hoạt động của CBCC trong các cơ quan HCNN - những người có vai trò quyết định trong bộ máy HCNN. Hoạt động giám sát xã hội góp phần tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan HCNN; phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan HCNN. Pháp luật về giám sát xã hội đối với cơ quan HCNN là công cụ ngăn ngừa những vi phạm pháp luật xảy ra đối với CBCC hành chính bằng việc quy định phải công khai thông tin cho nhân dân giám sát, phản ánh khi phát hiện tiêu cực. Bằng những quy định này, pháp luật góp phần đẩy lùi và hạn chế tình trạng tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, thiếu trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng, lãng phí trong việc sử dụng tài sản công, ngân sách và thực hiện các thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, pháp luật về giám sát xã hội đối với cơ quan HCNN có tác dụng đòi hỏi các cơ quan HCNN, CBCC hành chính thực hiện đúng và đầy đủ chức trách, nhiệm vụ được giao. Những kiến nghị, phản ánh của các chủ thể giám sát xã hội về kết quả thực hiện nhiệm vụ, về thái độ, trách nhiệm trong công việc của các đối tượng trên góp phần cải cách nền hành chính từ “hành chính cai trị”, “quản chế”, sang “hành chính phục vụ”, phát triển nền công vụ chuyên nghiệp, hiện đại, phục vụ nhân dân, coi công dân là khách hàng của nền hành chính.

Thứ năm, pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước có vai trò đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; phát hiện, kiến nghị những hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Phát hiện, ngăn chặn xử lý những vi phạm quyền tự do cơ bản của công dân là để đảm bảo thực thi các giá trị phổ quát và nhân văn của dân tộc và thời đại như: công bằng, bình đẳng, dân chủ, nhân quyền… Mặt khác, phát hiện những hạn chế, bất cập trong quản lý hành chính nhà nước là để kịp thời có giải pháp hoàn thiện, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền và các biểu hiện tiêu cực khác trong bộ máy hành chính nhà nước.

 - Thứ sáu, pháp luật về giám sát xã hội đối với các cơ quan HCNN góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong tình hình hiện nay, giám sát xã hội có vai trò rất quan trọng trong đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy nhà nước. Thực tiễn cho thấy nơi nào năng lực giám sát kém thì ở đó hiện tượng tiêu cực càng có điều kiện phát sinh. Vì vậy, bên cạnh những biện pháp tự phòng, chống của nhà nước thì rất cần tăng cường giám sát xã hội, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước. Hơn nữa, hoạt động giám sát cũng góp phần nâng cao vai trò trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội, ngăn ngừa, phòng chống các biểu hiện lạm dụng quyền lực nhà nước của các cơ quan hành chính dẫn tới xâm phạm đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thông qua giám sát xã hội, kỷ cương của cơ quan HCNN được thiết lập và tuân thủ chặt chẽ theo pháp luật.

Thứ bảy, pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan HCNN góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hành chính nói riêng. Là một bộ phận cấu thành của pháp luật nói chung, các quy phạm của nó có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác trong hệ thống pháp luật; đồng thời, giữa các quy phạm pháp luật này có mối liên hệ chặt chẽ, quan hệ nội tại, thống nhất, hướng đến việc thực hiện quyền giám sát của các chủ thể giám sát xã hội.

Bối cảnh, yêu cầu mới của đất nước đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật về giám sát xã hội đối với cơ quan HCNN nhằm phát huy dân chủ XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý HCNN, khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước.

Ghi chú:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật. Tập 1, tr 192

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

  2. GS.TS. Trần Ngọc Đường (2020):“Đổi mới cơ chế giám sát xã hội đối với việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước”, Tạp chí Mặt trận online, Thứ năm, 23/04/2020

3. Ngân hàng Thế giới - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam 2035 Hướng tới Thịnh vướng, Sáng tạo Công bằng và Dân chủ. Hà Nội, 2016

4. Đào Trí Úc (chủ biên) (2010), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Đặc điểm, vai trò của pháp luật về giám sát xã hội đối với các cơ quan hành chính nhà nước; ThS. Nguyễn Thị Huế (Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội Vụ).