1. Khái niệm miễn hình phạt

Mặc dù MHP đã được ghi nhận trong pháp luật thực định nhưng tại điều 54 BLHS lại chưa đưa ra được khái niệm pháp lý cụ thể của MHP. Khái niệm MHP mới chỉ được đề cập tới trong khoa học Luật hình sự nước ta với nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể:

- “Miễn hình phạt là không buộc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện” – TS. Trương Quang Vinh.

- “Miễn hình phạt là không buộc một người phải chịu hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện” – Đỗ Ngọc Quang.

- “Miễn hình phạt là không buộc người bị kết án phải gánh chịu hình phạt” – PGS. TS. Võ Khánh Vinh.

- “Miễn hình phạt là hủy bỏ biện pháp về cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất cho người bị kết án mà lẽ ra Tòa án phải tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người này” – PGS. TSKH. Lê Cảm.

- “Miễn hình phạt được áp dụng trong trường hợp Tòa án kết tội, nhưng không áp dụng hình phạt đối với người phạm tội do có những điều kiện mà BLHS năm 1999 quy định” – Trần Văn Độ.

Về cơ bản, các quan điểm trên về khái niệm miễn hình phạt đều hợp lý và thống nhất về bản chất pháp lý của “miễn hình phạt”. Đó là: Miễn hình phạt là một chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam, được thể hiện ở chỗ, Tòa án tuyên người bị kết án không phải chịu hình phạt về tội phạm mà họ đã thực hiện bằng một bản án có hiệu lực pháp luật, khi có đầy đủ điều kiện luật định.

2. Đặc điểm của miễn hình phạt

MHP là chế định nhân đạo tương tự một số chế định nhân đạo khác trong pháp luật hình sự Việt Nam (như chế định miễn trách nhiệm hình sự, miễn chấp hành hình phạt…) nhưng có những đặc trưng nhất định (như chủ thể có thẩm quyền áp dụng, điều kiện áp dụng…).

* Về tính chất nhân đạo của MHP:

Bên cạnh hàng loạt chế định thể hiện sự nhân đạo của Nhà nước (như miễn trách nhiệm hình sự, miễn chấp hành hình phạt, án treo…) thì miễn hình phạt được coi là một trong những chế định thể hiện rõ nhất nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung, của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng.

Như chúng ta đã biết, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước đối với người phạm tội. Việc áp dụng hình phạt sẽ “xâm phạm” trực tiếp vào quyền lợi của con người bởi hình phạt là đồng nghĩa với việc những quyền lợi cơ bản của người đó sẽ bị hạn chế hoặc tước bỏ. Vì vậy mà khi Nhà nước miễn hình phạt – tức là cho phép người phạm tội vẫn có được các quyền lợi cơ bản mà đáng lẽ đã bị hạn chế hoặc tước bỏ đó – nghĩa là đã thể hiện sự khoan hồng, độ lượng của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội đó.

Xét về mức độ khoan hồng với người phạm tội thì mức độ khoan hồng của miễn hình phạt chỉ đứng sau miễn trách nhiệm hình sự. Mức độ khoan hồng của MHP thể hiện ở chỗ người phạm tội mặc dù vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng sẽ không phải chịu hậu quả pháp lý tất yếu của tội phạm – là hình phạt. Còn các chế định nhân đạo khác như án treo, giảm chấp hành hình phạt, miễn chấp hành hình phạt… thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và vẫn phải chịu hình phạt. Như vậy, miễn hình phạt được xem là biện pháp khoan hồng ít nghiêm khắc hơn so với bất cứ hình phạt nào nhưng lại nghiêm khắc hơn so với miễn trách nhiệm hình sự.

* Về chủ thể được miễn hình phạt:

Miễn hình phạt được áp dụng với người phạm tội trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa tới mức được miễn trách nhiệm hình sự”. Như vậy, miễn hình phạt chỉ được áp dụng đối với cá nhân người phạm tội, mà nói đúng hơn là cá nhân người bị kết án – người phạm tội đã bị tuyên là có tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Đây là quy định xuất phát từ đặc trưng của hình phạt trong pháp luật Việt Nam: hình phạt chỉ được áp dụng với cá nhân người phạm tội. Vì vậy, miễn hình phạt với bản chất là hủy bỏ việc áp dụng hình phạt cũng chỉ được áp dụng với cá nhân người thực hiện hành vi phạm tội đó.

Hơn nữa, người bị kết án đó phải đáp ứng đầy đủ điều kiện do luật định (như nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng khoan hồng đặc biệt…) và nếu như không đáp ứng đầy đủ điều kiện đó thì người bị kết án đó tất yếu sẽ phải chịu hình phạt nào đó theo quy định của Bộ luật hình sự.

* Về thẩm quyền áp dụng:

Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định người bị kết án có được miễn hình phạt hay không. Đây là hậu quả tất yếu của nguyên tắc: hình phạt được áp dụng hay không và áp dụng như thế nào chỉ do duy nhất Tòa án quyết định.

* Về hình thức:

Miễn hình phạt phải được thể hiện bằng một bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên không áp dụng hình phạt đối với người bị kết án.

3. Điều kiện áp dụng miễn hình phạt

Điều 59 BLHS 2015 quy định về miễn hình phạt như sau: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”.

Dẫn chiếu quy định tại Điều 59 BLHS 2015, điều kiện để người phạm tội được miễn hình phạt bao gồm:

Thứ nhất, về điều kiện cần: Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS 2015. Cụ thể khoản 1, 2 Điều 54 BLHS 2015 quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng thể hiện:

“1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”.

Thứ hai, điều kiện đủ để người phạm tội được miễn hình phạt: Đó là người phạm tội “đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”.

Thứ ba, phân loại tội phạm được miễn hình phạt: Theo quy định tại Điều 59 BLHS 2015, có thể thấy rằng, bất cứ tội gì cũng có thể được miễn hình phạt, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

4. Hậu quả pháp lý

Một là, người được miễn hình phạt tức là được miễn cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung (nếu có). Bởi hình phạt bổ sung là hình phạt chỉ có thể áp dụng kèm với hình phạt chính, có tác dụng củng cố, tăng cường hiệu quả của việc áp dụng hình phạt, giúp cho việc xử lý tội phạm được toàn diện và triệt để. Khi hình phạt chính được miễn thì việc thi hành hình phạt bổ sung là không hợp pháp và không cần thiết.

Hai là, khoản 2 Điều 69 BLHS 2015 quy định “người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”. Như vậy, người được miễn hình phạt được đương nhiên xóa án tích ngay tại thời điểm bản án có hiệu lực pháp luật hoặc sau khi đã chấp hành xong các nghĩa vụ khác trong bản án như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nộp án phí. Đây là điểm đặc biệt mà chỉ có ở chế định miễn hình phạt và miễn trách nhiệm hình sự (TNHS).

Ba là, Điều 59 BLHS 2015 chưa quy định người phạm tội được miễn hình phạt có thể phải bị áp dụng các biện pháp pháp lý hình sự hay phi hình sự nào khác hay không. Tại điểm c khoản 2 Điều 451 BLTTHS năm 2015 có quy định Tòa án có thể quyết định “miễn TNHS hoặc miễn hình phạt và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”. Như vậy, người được miễn hình phạt vẫn có thể bị áp dụng một số biện pháp tư pháp. Và trong thực tiễn xét xử cho thấy, người được miễn hình phạt có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp tư pháp được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS 2015 bao gồm: “a) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi; c) Bắt buộc chữa bệnh”.

5. Ý nghĩa của quy định miễn hình phạt

MHP là chế định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện ở chỗ:

* MHP là chế định phản ánh rõ chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Việt Nam. Nhà nước ta đã khẳng định phương châm trong đường lối xử lý tội phạm với người phạm tội là “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, chống đối, lưu mang, tái phạm nguy hiểm…” nhưng phải “khoan hồng với người tự thú, thành khẩn khai báo tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”. “Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục”. Vì vậy, bên cạnh việc quy định những hình phạt có mức độ răn đe cao, với việc ghi nhận chế định MHP, Nhà nước ta đã mở một con đường nhân đạo, thể hiện sự khoan hồng với những người phạm tội với tính chất nguy hiểm không cao, có sự hối cải…, tạo cơ hội cho họ không bị cách ly ra khỏi xã hội và giúp họ sớm “hoàn lương”, khuyến khích họ sớm thích nghi với các yêu cầu của trật tự pháp luật, phấn đấu lập công chuộc tội, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

* MHP là chế định được đặt ra nhằm đảm bảo hiệu quả của hình phạt:

Như chúng ta đã biết, hình phạt là hậu quả pháp lý tất yếu của tội phạm. Nó thể hiện sự trừng trị của Nhà nước và xã hội đối với người có hành vi phạm tội. Một hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm đòi hỏi phải quy định những loại hình phạt và mức hình phạt tương xứng cho hành vi đó. Tuy trong BLHS Việt Nam, hình phạt không được quy định là dấu hiệu định nghĩa tội phạm mà chỉ là tính chất của tội phạm nhưng trên thế giới có không ít các quốc gia coi hình phạt là một dấu hiệu để định nghĩa tội phạm. Từ đó, để thấy rằng, áp dụng hình phạt là rất phổ biến của luật hình sự và chỉ có áp dụng hình phạt mới thấy hết được sự cưỡng chế của Nhà nước đối với hành vi có tính nguy hiểm cao như tội phạm.

Vậy, việc ghi nhận chế định MHP có được coi là đi ngược lại “nguyên tắc hình phạt” của Luật hình sự hay không? Câu trả lời là không. Bởi, việc áp dụng một loại hình phạt nào đó với một tội phạm là thực sự cần thiết nhưng hiệu quả của hình phạt đó có đạt được trên thực tế hay không lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Hình phạt đạt được hiệu quả khi trước hết nó phải đạt được những mục đích của hình phạt. Đó không chỉ là mục đích trừng trị người phạm tội mà còn là giáo dục cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa tội phạm mới. Như vậy, nếu hình phạt đưa ra là không thỏa đáng, tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì lúc đó, hình phạt không những không đạt được mục đích của hình phạt mà còn đi ngược lại mục đích của hình phạt, bởi, mục đích trừng trị người phạm tội được thực hiện nhưng mục đích giáo dục, cải tạo và ngăn ngừa tội phạm mới sẽ không hoàn thành. Trong khi đó, MHP với ý nghĩa là sự khoan hồng của Nhà nước có tác dụng rất lớn đối với tâm lý của người phạm tội đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội khác nên MHP có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, giúp họ trở thành công dân có ích cho xã hội.

Ngoài ra, nếu còn vấn đề vướng mắc hoặc băn khoăn về những nội dung trên hoặc các nội dung khác liên quan tới giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án, Quý khách hàng có thể liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6162 để được giải đáp thêm.

Trân trọng./

Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự - Công ty luật Minh Khuê

Hơn nữa, “hình phạt không có hiệu quả nếu không đạt được mục đích đặt ra nhưng hiệu quả hình phạt cũng không cao khi mặc dù mục đích đặt ra đã được thực hiện nhưng hiệu quả tiêu cực lại trở thành yếu tố quan trọng hơn so với mục đích đạt được”. Điều đó có nghĩa là hiệu quả hình phạt còn được thể hiện ở dấu hiệu tiết kiệm biện pháp cưỡng chế. Hiệu quả hình phạt chỉ đạt được khi mục đích hình phạt đạt được phải tương xứng với hậu quả của hình phạt đó. Không thể coi là hình phạt tù có hiệu quả khi mà áp dụng hình phạt tù hay biện pháp giáo dục tại phường xã đều có tác dụng giáo dục và răn đe như nhau. Như vậy, khi mà hình phạt có được đặt ra trong một số trường hợp mà dù có áp dụng hình phạt đó thì hiệu quả của hình phạt cũng không đạt được thì việc miễn hình phạt theo điều kiện luật định trong trường hợp đó là cần thiết. Cũng như PGS. TS. Lê Cảm đã khẳng định: “Bằng các quy phạm có tính chất nhân đạo của chế định miễn hình phạt, nhà làm luật tiết kiệm được các biện pháp mang tính chất trấn áp (trừng trị) về mặt pháp lý hình sự và do đó, sẽ góp phần loại trừ được việc áp dụng hình phạt trong những trường hợp mà mặc dù hình phạt có được Tòa án quyết định đi chăng nữa nhưng trên thực tế là bất hợp lý vì các mục đích của nó vẫn không thể đạt được” .

Như vậy, MHP là chế định quan trọng, xuất phát không chỉ từ bản chất, hiệu quả của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế của Luật hình sự mà còn bởi chính quan điểm, chính sách hình sự của từng quốc gia.