Mục lục bài viết
1. Li-xăng là gì?
Điều 141 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 quy định chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (hay còn gọi là li – xăng) là việc chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình.
Đối tượng sở hữu công nghiệp có thể là các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
Hợp đồng Li xăng là hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng - Hay hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp - đối với các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp và giống cây trồng như quyền sử dụng đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp. Hợp đồng này được quy định tại Mục 2 Chương X Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Tuy nhiên không phải tất cả các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp đều là đối tượng của hợp đồng li xăng: quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý (do mang tính chủ quyền lãnh thổ quốc gia ) của hàng hóa thì không phải là đối tượng của hợp đồng li xăng.
2. Nội dung chính của hợp đồng li-xăng:
Nội dung của hợp đồng Li-xăng theo quy định tại Điều 144 Luật sở hữu trí tuệ gồm các nội dung chủ yếu, buộc phải có gồm:
- Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền;
- Căn cứ chuyển giao quyền sử dụng;
- Dạng hợp đồng;
- Phạm vi chuyển giao, gồm giới hạn quyền sử dụng, giới hạn lãnh thổ;
- Thời hạn hợp đồng;
- Giá chuyển giao quyền sử dụng;
- Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền.
Theo quy định, trong hợp đồng li-xăng không được có các điều khoản làm hạn chế một cách bất hợp lý các quyền của bên nhận chuyển quyền, đặc biệt là các điều khoản sau đây không xuất phát từ quyền của bên chuyển quyền:
- Điều khoản cấm bên được chuyển quyền cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp, trừ nhãn hiệu (vì nếu cải tiến, thay đổi nhãn hiệu làm ảnh hưởng đến nhận diện thương hiệu của bên chuyển quyền); buộc bên được chuyển quyền phải chuyển giao miễn phí cho bên chuyển quyền các cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp do bên được chuyển quyền tạo ra hoặc quyền đăng ký sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp đối với các cải tiến đó;
- Các điều khoản trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên được chuyển quyền xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp sang các vùng lãnh thổ không phải là nơi mà bên chuyển quyền nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp tương ứng hoặc có độc quyền nhập khẩu hàng hóa đó;
- Buộc bên được chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các nguyên liệu, linh kiện hoặc thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của bên thứ ba do bên chuyển quyền chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp;
-Hoặc các điều khoản cấm bên được chuyển quyền khiếu kiện về hiệu lực của quyền sở hữu công nghiệp hoặc quyền chuyển giao của bên chuyển quyền.
Nếu trong hợp đồng li-xăng xuất hiện các điều khoản trên thì những điều khoản đó sẽ mặc nhiên bị vô hiệu.
3. Thời hạn của hợp đồng li-xăng:
Thời hạn của hợp đồng li-xăng bao gồm thời điểm bắt đầu, thời gian có hiệu lực và thời điểm chấm dứt. Thời hạn đó phải được quy định trong hợp đồng. Quyền sở hữu trí tuệ có thể được li-xăng trong thời gian tối đa là thời hạn nó có hiệu lực (như thời gian li-xăng tối đa đối với sáng chế nhìn chung là 20 năm). Hợp đồng li-xăng có thể có thời hạn ngắn hơn và các bên có thể bảo lưu quyền chấm dứt hợp đồng nếu các tình huống cụ thể xảy ra.
4. Ưu và nhược điểm của hợp đồng li-xăng:
* Ưu điểm:
- Việc li-xăng sản phẩm mới có hiệu quả hơn so với việc tự mình sản xuất sản phẩm đó.
- Tiếp cận những thị trường mới không dễ dàng thâm nhập. Thông qua việc cho phép bên nhận li-xăng quyền tiếp thị và phân phối sảng phẩm, bên cấp li-xăng có thể thâm nhập vào thị trường mà không thể thâm nhập bằng biện pháp khác.
- Hợp đồng có thể quy định các biện pháp để bên cấp li-xăng có quyền đối với những cải tiến, bí quyết kỹ thuật công nghệ và các sản phẩm có liên quan mà sẽ được bên nhận li-xăng phát triển trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Dù vậy, không phải lúc nào cũng có thể yêu cầu các quyền như vậy và sẽ tùy thuộc vào giới hạn các loại điều kiện trong hợp đồng li-xăng.
- Việc cấp li-xăng là cần thiết nếu sản phẩm chỉ bán chạy nhất hi được kết hợp hoặc bán để sử dụng cùng với sản phẩm khác, hoặc nếu các tài sản trí tuệ. Ví dụ, các sáng chế được sở hữu bởi các doanh nghiệp khác nhau là cần thiết một cách đồng thời để sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ một cách có hiệu quả cho một sản phẩm
- Li-xăng cho phép bên giao li-xăng giữ quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ và đồng thời nhận được thù lao li-xăng, ngoài khoản lợi nhuận thu được từ việc tự khai thác các tài sản đó từ các sản phẩm hoặc dịch vụ do bên đó bán hoặc cung cấp.
* Nhược điểm:
- Bên nhận li-xăng có thể trở thành đối thủ cạnh tranh của bên cấp li-xăng. Bên nhận li-xăng có thể "thao túng" việc bán hàng của bên cấp li-xăng, làm cho bên cấp li-xăng thu được ít tiền thù lao hơn so với những thiệt hại trong kinh doanh do sự cạnh tranh của đối thủ mới.
- Nguồn thu của bên cấp li-xăng phụ thuộc vào kỹ năng, khả năng và nguồn lực của bên nhận li-xăng. Sự phụ thuộc này càng lớn hơn trong trường hợp li-xăng độc quyền. Một bên nhận li-xăng không có hiệu quả thì bên cấp li-xăng không có nguồn thu.
- Sự yêu cầu đóng góp bất ngờ từ bên nhận li-xăng. Như việc đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ kỹ thuật, dữ liệu kỹ thuật bổ sung... Do vậy trong hợp đồng li-xăng cần phải có sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên. Theo đó, có thể tránh những xung đột, bất đồng nào xảy ra trong tương lai, dựa theo quy định hợp đồng để có thể giải quyết một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
5. Nhượng quyền thương mại là gì?
Điều 284 Luật thương mại 2005 quy định nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
- Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh
Nhượng quyền thương mại có thể được hiểu là một thỏa thuận mà trong đó bên nhượng quyền đã phát triển ra một hệ thống để điều hành một doanh nghiệp cụ thể, cho phép bên được nhượng quyền sử dụng chính hệ thống đó theo quy định của bên nhượng quyền và đổi lại, bên chuyển nhựng được nhận thù lao từ bên được nhượng quyền. Mối quan hệ này tiếp tục tồn tại khi bên nhận được nhượng quyền hoạt động phù hợp với các tiêu chuẩn và thực tiễn được bên nhượng quyền thiết lập và giám sát. Nhận được sự hỗ trợ và trợ giúp từ bên nhượng quyền.
* Các đặc trưng cơ bản của mối quan hệ nhượng quyền thương mại là:
- Quan hệ tương tác tiếp diễn: mối quan hệ này sẽ tiếp diễn, liên quan đến việc bán sản phẩm được nhượng quyền (hoặc cung cấp dịch vụ được nhượng quyền) trong một thời hạn nhất định. Bên nhượng quyền sẽ không ngừng hỗ trợ cho bên được nhượng quyền thành lập, duy trì và phát triển đơn vị được nhượng quyền. Cùng với đó, Bên được nhượng quyền tiếp tục phải trả phí cho bên nhượng quyền cho việc sử dụng hệ thống nhượng quyền hoặc thanh toán cho bên nhượng quyền đối với việc tiếp tục cung cấp các dịch vụ quản lý.
- Quyền quy định cách thức kinh doanh của bên chuyển nhượng: bên được nhượng quyền đồng ý tuân thủ các chỉ dẫn về cách thức điều hành hệ thống do bên nhượng quyền quy định. Những chỉ dẫn này có thể liên quan đến việc kiểm soát chất lượng, bảo vệ hệ thống, các chi tiết liên quan đến việc điều hành và các quy định khác nhằm kiểm soát hoạt động của bên được nhượng quyền trong hoạt động nhượng quyền.
6. Phân biệt nhượng quyền thương mại và li-xăng
* Giống nhau: đều có hoạt động chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ, đều có bên giao và bên nhận.
* Khác nhau:
- Đối tượng chuyển giao:
+ Li-xăng: hoạt động li-xăng hướng đến chính là quyền sở hữu công nghiệp.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể tại Điều 141, Điều 142 thì đối tượng của hợp đồng li xăng là quyền sử dụng đối với sáng chế ,kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu ( trừ nhãn hiệu tập thể không thể chuyển giao cho tổ chức cá nhân không phảu là thành viên của tổ chức tập thể đó), thiết kế bố trí và bí mật kinh doanh.
Việc li-xăng phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Đối tượng Li-xăng phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp.
- Quyền sở hữu công nghiệp tương ứng phải được thừa nhận tại Việt Nam và Văn bằng bảo hộ tương ứng đang còn hiệu lực.
- Việc chuyển quyền sử sụng đối tượng sở hữu công nghiệp phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản.
+ Nhượng quyền thương mại thì phạm vi tương đối mở rộng hơn. Vì thế mà đối tượng chuyển giao có thể là các quyền sở hữu công nghiệp, thương hiệu, công thức, mô hình kinh doanh…
- Về quyền kiểm sát sau khi giao, chuyển nhượng:
+ Li-xăng thì bên chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp không có hoặc chỉ có quyền kiểm soát trong trường hợp cần thiết và trong phạm vi hẹp được giới hạn bởi luật định.
+ Nhượng quyền thương mại thì bên nhượng quyền vẫn có quyền kiểm soát để đảm bảo việc tổ chức kinh doanh đúng như bên nhượng quyền yêu cầu.
- Về giới hạn của chuyển giao, chuyển nhượng:
+ Li – xăng các bên không được chuyển quyền cho bên thứ ba trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
+ Nhượng quyền thương mại sẽ không giới hạn quyền của bên chuyển quyền. Riêng đối với bên nhượng quyền thì chỉ được chuyển nhượng cho bên thứ ba nếu bên chuyển quyền đồng ý.
- Về sự hỗ trợ của bên chuyển giao, chuyển nhượng
Đây cũng là một yếu tố để phân biệt nhượng quyền thương mại và li – xăng.
+ Bên nhượng quyền thương mại vẫn sẽ hỗ trợ thường xuyên, liên tục cho bên nhận quyền để đảm bảo hệ thống kinh doanh vận hành theo đúng lộ trình ban đầu do bên nhượng quyền đề ra, đảm bảo chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung ứng. Đồng thời bên nhượng quyền có quyền kiểm soát toàn bộ hoạt động.
+ Trái lại thì trong hoạt động li – xăng, bên chuyển giao quyền sử dụng thường chỉ hỗ trợ theo thỏa thuận nhưng tương đối hạn chế như hỗ trợ về dữ liệu, kĩ thuật,…