1. Khái niệm về hợp đồng Li-xăng
Căn cứ Khoản 1 Điều 141 Luật Sở hữu trí tuệ. Chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (hay còn gọi là li-xăng) là việc:
“Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình”
Việc chuyển quyền phải có hợp đồng bằng văn bản (hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp – sau đây gọi tắt là “Hợp đồng Li-xăng”).
Hợp đồng li xăng là hợp đồng chuyển quyền sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ.
Hợp đồng li- xăng được hiểu là là một văn bản thoả thuận về việc chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ (người cấp li-xăng) cho phép người khác (người nhận li-xăng) sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ của mình, trong khi vẫn tiếp tục giữ quyền sở hữu các quyền đó.
Theo đó, hợp đồng Li-xăng có thể được thực hiện theo một trong ba dạng sau:
- Hợp đồng độc quyền: Bên chuyển quyền không được ký kết hợp đồng Li-xăng với bất kỳ bên thức ba nào khác và chỉ được được sử dụng nếu được sự cho phép của bên được chuyển quyền.
- Hợp đồng không độc quyền: Trong phạm vi và thời hạn chuyển giao quyền sử dụng, bên chuyển quyền có thể sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp cũng như ký kết hợp đồng Li-xăng với người khác.
- Hợp đồng thứ cấp: Bên được chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thực hiện chuyển giao quyền sử dụng theo một hợp đồng khác là hợp đồng thứ cấp.
2. Hình thức và nội dung của hợp đồng Li-xăng
- Hình thức của hợp đồng Li – xăng: Hợp đồng chuyển quyền sử dụng phải thực hiện dưới hình thức bằng văn bản, mọi hình thức khác đều không có giá trị pháp lý.
- Nội dung hợp đồng Li – xăng:
Hợp đồng chuyển quyền sử dụng phải có những nội cơ bản sau:
+ Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển quyền và bên nhận quyền.
+ Căn cứ chuyển quyền sử dụng
+ Dạng hợp đồng (dạng chuyển quyền sử dụng)
+ Phạm vi chuyển quyền sử dụng: giới hạn quyền sử dụng, giới hạn lãnh thổ.
+ Thời hạn chuyển quyền sử dụng
+ Giá chuyển quyền sử dụng và phương thức thanh toán (trọn gói hoặc theo kỳ)
+ Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển quyền và bên nhận quyền.
+ Chữ ký của người đại diện cho các bên
3. Quy định về thời hạn bảo hộ sáng chế
Tại khoản 12 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ định nghĩa: “Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”.
Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp
Bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các yêu cầu sau:
- Có tính mới
- Có trình độ sáng tạo
- Có khả năng áp dụng công nghiệp.
Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp
Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau: có tính mới, có khả năng áp dụng công nghiệp. Trên thế giới, những giải pháp kỹ thuật mang tính sáng tạo còn có thể bảo hộ như một bí mật thương mại. Người nắm giữ giải pháp kỹ thuật có thể cân nhắc giữa hai sự lựa chọn : bảo hộ sáng chế để bảo đảm sự độc quyền khai thác sáng chế trong một thời hạn hoặc bảo hộ bí mật kinh doanh để tránh việc phải bộc lộ sáng chế của họ. Do những đặc tính của sáng chế cũng như điều kiện bảo hộ sáng chế nêu trên, thời hạn bảo hộ cũng có những điểm riêng so với các đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp. Sáng chế được bảo hộ khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Văn bằng bảo hộ.
Đối với Bằng độc quyền Sáng chế, thời hạn bảo hộ là 20 năm, kể từ ngày nộp đơn (phải đóng phí duy trì hiệu lực hàng năm),
Đối với Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, thời hạn bảo hộ là 10 năm, kể từ ngày nộp đơn (phải đóng phí duy trì hiệu lực hàng năm).
4. Vụ việc tranh chấp
- Các bên:
+ Nguyên đơn: Chủ sỏ hữu bằng sáng chế Italia
+ Bị đơn : Người sử dụng bằng sáng chế Italia
- Các vân đề được đề cập:
+ Quyết định của cơ quan hành chính gia hạn miễn phí thời hạn bảo hộ bằng sáng chế
+ Thẩm quyền xét xử của trọng tài
- Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn là chủ sỏ hữu sáng chế đã đăng ký ỏ Italia, có quyền sở hữu đầy đủ và được hưởng các lợi ích từ các sáng chế và ứng dụng sáng chế trong sản xuất chai nhựa polyethylene dùng để đựng đồ uống nhẹ có ga.
Năm 1979, Nguyên đơn và công ty X ký Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế chai đựng đồ uống nhẹ (chai SKD).
Ở Italia, loại chai SKD được cấp bằng sáng chế số... Bằng sáng chế này được nêu trong Phụ lục A của Hợp đồng. Nguyên đơn cũng là chủ sỏ hữu của năm bằng sáng chế khác ỏ Italia (xem Phụ lục B của Hợp đồng) liên quan đến các loại chai SKD đặc biệt hoặc phương pháp sản xuất hoặc thiết bị sản xuất ra các loại chai này.
Năm 1984, với sự đồng ý của Nguyên đơn, công ty X đã chuyển nhượng Hợp đồng cho công ty con của mình, Bị đơn.
Năm 1985, Bị đơn gửi cho Nguyên đơn bản telex đề cập tới một Sắc lệnh của Chính phủ Italia ngày 22 tháng 6 năm 1979 đăng trong Công báo ngày 7 tháng 8 năm 1979 (sau đây gọi là Sắc lệnh).
Điều 4 của Sắc lệnh quy định tăng thời hạn bảo hộ của các bằng sáng chế ỏ Italia từ 15 năm lên 20 năm và Điều 84 quy định "những người được phép sử dụng sáng chế và những người đã đầu tư có hiệu quả và nghiêm túc để sử dụng sáng chế có quyền nhận một giấy phép không độc quyền bắt buộc (a non exclusive compulsory license) đề sử dụng sáng chế miễn phí trong thời gian gia hạn thêm với điều kiện thời hạn bảo hộ của sáng chế sắp hết. Nếu bằng sáng chế chưa hết thời hạn bảo hộ thì không áp dụng quyền này."
Viện dẫn các điều khoản nói trên, Bị đơn đã thông báo cho Nguyên đơn rằng họ sẽ ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế vào cuối năm 1985 bỏi vì tính đến năm 1985 sáng chế đã đăng ký được 15 năm, tức gần hết thòi hạn bảo hộ theo quy định tại Điều 84. Nguyên đơn phản đối và cho rằng Bị đơn không có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế.
Qua bản telex ngày 3 tháng 7 năm 1986, BỊ đơn đã yêu cầu Nguyên đơn cấp một giấy phép không độc quyền sử dụng bằng sáng chế miễn phí (a non exclusive free license) cho đến ngày 16 tháng 12 năm 1990. Bị đơn còn nhấn mạnh "nếu yêu cầu chính thức này không được chấp nhận trong vòng 15 ngày kể từ ngày hôm nay, Bị đơn có quyền nộp đơn cho Văn phòng sáng chế Italia để chính thức xin cấp giấy phép bắt buộc (a compulsory license) phù hợp với các điều khoản liên quan của Luật sáng chế Italia."
Theo yêu cầu của Bị đơn, Bộ Công nghiệp Italia ban hành một Quyết định cấp cho Bị đơn một giấy phép bắt buộc không độc quyền (a non exclusive compulsory license) sử dụng sáng chế miễn phí trong vòng 5 năm từ ngày 16 tháng 12 năm 1985 đến ngày 15 tháng 12 năm 1990.
Do Bị đơn từ chôì thanh toán tiền mua quyền sử dụng sáng chế nên Nguyên đơn đã kiện ra trọng tài đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại hợp đồng và trả tất cả mọi khoản thanh toán theo Hợp đồng cho đến ngày bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ, đó là ngày 16 tháng 12 năm 1990.
5. Phán quyết của trọng tài:
(Phán quyết trình bày dưới đây chỉ giải quyết vấn đề thẩm quyền xét xử của trọng tài)
Bị đơn phản đối thẩm quyền xét xử của trọng tài với các lý do sau đây:
Thứ nhất, Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia đã hoàn toàn giải quyết được khiếu kiện của Nguyên đơn. Vì vậy, cần chấm dứt vụ kiện. Theo BỊ đơn Điểu 84 của sắc lệnh đã trao cho Bộ Công nghiệp Italia quyền cấp giấy phép sử dụng sáng chế miễn phí. Không có Toà án hay trọng tài nào có thể thay thế Bộ Công nghiệp Italia thực hiện quyền lực hành chính này.
Thứ hai, nếu Bị đơn có giấy phép sử dụng bằng sáng chế miễn phí có hiệu lực pháp lý, thì Bị đơn hoàn toàn không vi phạm hợp đồng; nếu không thì Hợp đồng đương nhiên bị vi phạm. Điều này có nghĩa là vấn đề xác định vi phạm hợp đồng cũng đồng thời là việc xác định quyền của Bị đơn theo Điều 84 của Sắc lệnh. Quyền sử dụng sáng chế của Bị đơn căn cứ trên cơ sỏ Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia chứ không căn cứ trên Hợp đồng. Nói cách khác, tranh chấp đưa ra Uỷ ban trọng tài không liên quan đến các quyền của Bị đơn phát sinh từ Hợp đồng hay giải thích hợp đồng như quy định trong điểu khoản trọng tài của Hợp đồng. Vì vậy trọng tài không có thẩm quyển.
Ngoài ra, Bị đơn còn cho rằng Uỷ ban trọng tài không thể phủ nhận Quyết định ngày 16 tháng 5 bán 1988 của Bộ Công nghiệp Italia, uỷ ban trọng tài cần xem xét Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia và sau khi khẳng định giấy phép của Bộ Công nghiệp Italia cho phép sử dụng sáng chế miễn phí thì phải tuyên bố Bị đơn không vi phạm hợp đồng. Theo Bị đơn, nếu sự việc chỉ trong giới hạn như vậy thì tranh chấp có thể đưa ra xét xử trọng tài.
Về phần mình, Nguyên đơn lập luận như sau:
Vấn đề duy nhất Uỷ ban trọng tài phải quyết định là trong phạm vi của Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Bị đơn có phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn nữa hay không. Theo Nguyên đơn, vấn đề này Bộ Công nghiệp Italia không quyết định vì cơ quan này chỉ quyết định xem liệu Bị đơn có quyền nhận giấy phép theo Điều 84 của sắc lệnh không. Bộ Công nghiệp Italia không đưa ra bất cứ giải thích Hợp đồng nào bỏi việc đó thuộc thẩm quyền của uỷ ban trọng tài. Vì vậy, Nguyên đơn cho rằng uỷ ban trọng tài phải thực hiện quyền giải thích hợp đồng.
Theo Nguyên đơn, Quyết định của Bộ Công nghiệp không miễn cho Bị đơn các nghĩa vụ hợp đồng phải trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn.
Hơn nữa, Nguyên đơn còn cho rằng BỊ đơn đã lẫn lộn giữa quyền sử dụng sáng chế miễn phí mà BỊ đơn có được theo Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia và khiếu kiện của Nguyên đơn đòi tiền bản quyền theo hợp đồng. Đốỉ với Nguyên đơn, uỷ ban trọng tài phải xem xét việc Quyết định của Bộ Công nghiệp có tác động như thê nào đến vụ tranh chấp. Bản thân Quyết định của Bộ Công nghiệp phải được giải thích và áp dụng theo Hợp đồng.
Uỷ ban trọng tài có ý kiến như sau:
Vấn đề chính được đưa ra trước uỷ ban trọng tài là liệu BỊ đơn có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng không và liệu Bị đơn có phải trả tiền bồi thường thiệt hại vi phạm hợp đồng không.
Theo điều khoản trọng tài trong Hợp đồng "bất kỳ tranh chấp nào liên quan tới giải thích hoặc thực hiện Hợp đồng này và bất kỳ vấn đề nào nảy sinh từ Hợp đồng mà các bên không thể giải quyết trong một thời hạn hợp lý, sẽ được đưa ra trọng tài theo các quy tắc của Phòng thương mại quốc tế." Việc trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế quy định tại Hợp đồng và việc vi phạm hợp đồng do không trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế là các vấn để liên quan đến việc thực hiện hợp đồng.
Uỷ ban trọng tài không chấp nhận quan điểm của Bị đơn cho rằng tranh chấp không thể đưa ra trọng tài vì "vấn đề về vi phạm hợp đồng trùng với vấn đề xác định quyền của Bị đơn theo Điều 84 của sắc lệnh". Bị đơn từ chối thẩm quyền của trọng tài dựa trên một căn cứ duy nhất là Quyết định ngày 16 tháng 5 năm 1988 của Bộ Công nghiệp Italia đã cho Bị đơn quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế. Nguyên đơn đã bác quan điểm này trước Uỷ ban trọng tài. Nguyên đơn nhấn mạnh vấn đề cần xem xét ở đây là liệu trong phạm vi Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Bị đơn có nghĩa vụ tiếp tục trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn theo HỢỊ5 đồng nữa hay không. Vấn đề này liên quan tối giải thích Hợp đồng và theo quy định của điều khoản trọng tài trong Hợp đồng, uỷ ban trọng tài được phép giải thích Hợp đồng.
Hơn nữa, do Nguyên đơn nói rõ là Nguyên đơn không phản đôì Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Uỷ ban trọng tài không được các bên yêu cầu phải quyết định xem liệu Bị đơn có quyền được nhận giấy phép sử dụng sáng chế miễn phí trong phạm vi Điều 84 của sắc lệnh không, một vấn đề vượt ra ngoài phạm vi thẩm quyền của uỷ ban trọng tài. Quyết định ngày 16 tháng 5 năm 1988 là một trong những nhân tố pháp lý mà uỷ ban trọng tài cần xem xét khi xác định quyền của Bị đơn không phải trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng nhưng sự tồn tại của Quyết định này không tước đi quyển giải thích Hợp đồng và xác định tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng của uỷ ban trọng tài. Thực tế, Bị đơn không hoàn toàn phản đối quan điểm này, bỏi Bị đơn đã thừa nhận rằng uỷ ban trọng tài có thể xem xét Quyết định của Bộ Công nghiệp và sau khi đã khẳng định giấy phép cho Bị đơn quyền sử dụng sáng chế miễn phí thì tuyên bô' là Bị đơn không vi phạm Hợp đồng. Điều này cho thấy việc Bị đơn khước từ đưa tranh chấp ra trọng tài trên thực tế là sự khước từ một trong những giải pháp mà uỷ ban trọng tài có thể đề xuất với Bị đơn. Nếu Uỷ ban trọng tài có thẩm quyền quyết định Bị đơn không vi phạm Hợp đồng, Uỷ ban trọng tài cũng có thẩm quyền đưa ra quyết định về các vi phạm hợp đồng khác.
Vì các lý do nêu trên, uỷ ban trọng tài quyết định tranh chấp có thể đưa ra trọng tài và uỷ ban trọng tài có thẩm quyền quyết định xem liệu Bị đơn có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng không và nếu ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế thì Bị đơn có vi phạm Hợp đồng không.