1. Mẫu biên bản về việc lấy ý kiến cho trẻ em làm con nuôi

Luật Minh Khuê xin giới thiệu mẫu Đơn xin nhận con nuôi ( Mẫu TP/CN-2011/CN.07.a) được ban hành kèm theo Thông tư 24/2014/TT-BTP ngày 27 tháng 6 năm 2011 của Bộ Tư pháp về biên bản về việc lấy ý kiến cho trẻ em làm con nuôi

Mẫu TP/CN-2011/CN.07.a

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

___________________

BIÊN BẢN LẤY Ý KIẾN VỀ VIỆC

CHO TRẺ EM LÀM CON NUÔI

Hôm nay, ngày................ tháng................ năm................. tại.........

..........................................................................................................

Tôi tên là:.........................................................................................

chức vụ:............................................................................................

................................... đơn vị công tác ...........................................

tiến hành việc lấy ý kiến của những người có liên quan về việc cho trẻ em làm con nuôi theo quy định tại Điều 20 và 21 của Luật Nuôi con nuôi.

Sau khi được tư vấn đầy đủ về các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi, những người có liên quan đã thể hiện việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi như sau:

Tôi/chúng tôi, người ký tên dưới đây:

Ông

Họ và tên

Ngày, tháng, năm sinh

Dân tộc

Quốc tịch

Số Giấy CMND/ Hộ chiếu

Nơi cấp

Ngày, tháng, năm cấp

Nơi thường trú

Điện thoại/ fax/email

Là Cha đẻ Mẹ đẻ Người giám hộ của trẻ em:

- Họ và tên trẻ em:............. Giới tính:..........................

-

-

-

-

.................................................................................

Xin khẳng định như sau:

1. Tôi/chúng tôi đã được tư vấn đầy đủ về các vấn đề sau:

- Khả năng tiếp tục nuôi dạy trẻ em tại môi trường gia đình ruột thịt của trẻ em;

- Các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi, về các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ và con, quan hệ của những thành viên trong gia đình với trẻ em sau khi trẻ em được cho làm con nuôi.

2. Tôi/chúng tôi đồng ý cho trẻ em có tên trên làm con nuôi. Việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, không có bất cứ sự đền bù hay thoả thuận vật chất nào.

3. Tôi/chúng tôi hiểu rằng, việc cho trẻ em làm con nuôi sẽ phát sinh mối quan hệ cha mẹ và con lâu dài, ổn định giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.

4. Tôi/chúng tôi đồng ý /không đồng ý rằng, kể từ ngày giao nhận con nuôi, tôi/chúng tôi sẽ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.

5. Tôi/chúng tôi hiểu rằng sau ngày..................tháng.............. năm.............(1), tôi/chúng tôi không được thay đổi ý kiến về việc cho trẻ em làm con nuôi.

Ý kiến của trẻ em từ 9 tuổi trở lên được cho làm con nuôi ................ , ngày.............tháng............... năm.................

(Ký/điểm chỉ, ghi rõ họ tên )

CHA/MẸ ĐẺ/NGƯỜI GIÁM HỘ CỦA TRẺ EM

(Ký, ghi rõ họ tên hoặc điểm chỉ )

Xác nhận của người làm chứng (3):

Tôi tên là: ................................................................................,

CMND số:...... , cấp ngày.... tháng... năm.... , cơ quan cấp.....

Hiện cư trú tại: .........................................................................

Xác nhận ông:.........., bà:........ đã đồng ý cho trẻ em có tên trên đi làm con nuôi.

........., ngày.... tháng..... năm...

NGƯỜI LÀM CHỨNG

(Ký, ghi rõ họ tên)

Xác nhận của người lấy ý kiến

Tôi xác nhận rằng những người có tên trên đã bày tỏ sự tự nguyện đồng ý cho trẻ em làm con nuôi và đã ký tên/điểm chỉ trước mặt tôi.

Cha/mẹ đẻ của trẻ em và người nhận nuôi con nuôi có /không có thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ nói tại điểm 4 của Biên bản này.

................, ngày............tháng..........năm.........

Người lấy ý kiến

(Ký, ghi rõ họ tên)

Xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (3)

Xác nhận chữ ký bên là của Ông/Bà.................................là người đã tiến hành việc lấy ý kiến về việc cho trẻ em .......................... làm con nuôi.

................, ngày............tháng..........năm.............

TM. .............................

(Ký, ghi rõ họ tên, chức vụ, đóng dấu)

(1) 15 ngày kể từ ngày lấy ý kiến đối với trường hợp nuôi con nuôi trong nước; 30 ngày kể từ ngày lấy ý kiến đối với trường hợp nuôi con nuôi nước ngoài.

(2) Chỉ cần thiết trong trường hợp người có liên quan không biết đọc, biết viết.

(3) Đối với trẻ em thường trú ở trong nước, trường hợp công chức tư pháp- hộ tịch cấp xã đi lấy ý kiến, thì, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú xác nhận; trường hợp cán bộ hộ tịch của Sở Tư pháp đi lấy ý kiến, Sở Tư pháp xác nhận . Đối với trẻ em tạm trú ở nước ngoài, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác nhận.

2. Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế

Xen lẫn trong những câu chuyện kinh doanh của thời hội nhập, nuôi con nuôi quốc tế (International Adoption) - một nội dung trọng yếu của quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài - đang ngày càng trở nên gần gũi với người Việt nam.

Tuy thế, một khuôn khổ pháp lý để bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ được nhận nuôi dường như vẫn còn chưa đủ. Với tính chất quốc tế của loại hình cho và nhận con nuôi này, pháp luật quốc gia Việt Nam - dù đã có một loạt quy định điều chỉnh - cũng khó lòng vươn tới nơi xứ người để chở che cho con trẻ nước mình. Sự lựa chọn tích cực và đầy hiệu lực cho những vấn đề toàn cầu, trong đó có con nuôi quốc tế chính là ký kết, tham gia những thỏa thuận song và đa phương. Gia nhập Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (Công ước Lahaye 1993), đang là một yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam hiện nay.

1. Tính cấp bách của việc gia nhập Công ước Lahaye 1993

Thực trạng việc cho và nhận con nuôi quốc tế ở Việt Nam

Về mặt lý thuyết, việc nuôi con nuôi quốc tế có thể diễn ra theo hai chiều: thứ nhất, cho người nước ngoài (hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài) nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi; thứ hai, công dân Việt Nam xin nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. Thực tiễn cho thấy, việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phổ biến hơn. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Tư pháp, chỉ trong 5 năm (từ 1994 -1999) có tới 9.322 trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi; trong đó số trẻ em làm con nuôi tại Pháp là 3.407, chiếm trên 1/3 trẻ được nhận làm con nuôi tại Pháp (1). Tính trung bình cho đến nay, mỗi năm có khoảng 2.000 trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi (2) và số trẻ em được nhận mỗi năm một tăng cao. Như vậy, rõ ràng nhu cầu về việc nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi của người nước ngoài là rất lớn và đang tiếp tục phát triển. Xét về nguồn trẻ em, Việt Nam là một đất nước đông dân - với trên 85 triệu người - hiện có tới trên dưới 27% dân số là trẻ em (chỉ mới tính từ 14 tuổi trở xuống)(3), trong đó, số lượng trẻ em ở vào hoàn cảnh khó khăn như tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không nơi nương tựa... chiếm một tỉ lệ khá lớn. Nhu cầu về một mái ấm gia đình, về những điều kiện tốt đẹp về vật chất lẫn tinh thần cho những đứa trẻ là rất đáng quan tâm. Vì vậy, việc xem xét để giải quyết cho và nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài không chỉ là đòi hỏi nhằm đáp ứng nhu cầu của người nước ngoài, mà hơn hết, chính là nhằm góp phần tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho trẻ em Việt Nam.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162

Khung pháp luật hiện hành điều chỉnh việc nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam

Để hiệu chỉnh quan hệ nuôi con nuôi quốc tế, pháp luật là công cụ mang tính hiệu quả và hiệu lực nhất. Pháp luật về nuôi con nuôi quốc tế hiện hành ở Việt Nam gồm có hai nguồn: nguồn quốc tế và nguồn quốc gia. ở nguồn quốc tế, trong 15 hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký với các nước thì có khá nhiều hiệp định đã đề cập ở mức độ nhất định về vấn đề nuôi con nuôi quốc tế. Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến 13 hiệp định về hợp tác nuôi con nuôi (Agreement on mutual cooperation concerning adoption) mà Việt Nam đã ký liên quan tới 10 nước (4). Về phía pháp luật quốc gia, vấn đề nuôi con nuôi quốc tế hiện được quy định tại các văn bản như: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định 69/2006/NĐ-CP ngày 21/07/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP; Thông tư của Bộ Tư pháp số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; và Thông tư của Bộ Tư pháp số 08/2006/TT-BTP ngày 08/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Bỏ qua những đánh giá mang tính chi tiết về từng quy định đối với quan hệ nuôi con nuôi quốc tế trong các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam (phần này sẽ được làm rõ hơn khi bàn về những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi gia nhập Công ước Lahaye 1993) thì điểm nổi bật nhất có thể thấy là khả năng hạn chế trong việc điều chỉnh hoạt động cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Pháp luật Việt Nam chỉ tỏ rõ hiệu lực của mình chủ yếu ở phần đầu của quá trình cho nhận con nuôi ấy - về điều kiện của người nhận nuôi, của con nuôi, rồi thủ tục cho nhận... Còn đối với phần sau của quá trình nuôi con nuôi quốc tế (vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của đứa trẻ trong mối quan hệ với bố mẹ nuôi ở nước mà nó cư trú) - sau khi trẻ em Việt Nam đã được bàn giao cho bố mẹ nuôi - thì gần như pháp luật Việt Nam không thể phát huy được hiệu lực, bởi lẽ hiệu lực của hệ thống pháp luật mỗi quốc gia luôn chỉ có giá trị trên lãnh thổ của mình. Trong khi đó, các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài cũng chỉ dừng lại ở mức độ quy định về vấn đề luật áp dụng và thẩm quyền giải quyết quan hệ nuôi con nuôi quốc tế. Các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế - dù đã đi xa hơn và hiệu quả hơn khi thiết lập các cơ chế hỗ trợ song phương trong việc đảm bảo một cuộc sống tốt đẹp cho đứa trẻ ngay cả khi nó đã được chuyển ra nước ngoài sinh sống - nhưng lại hạn chế ở hai điểm căn bản: thứ nhất, các hiệp định hợp tác nuôi con nuôi vẫn chưa thực sự là một khung pháp lý đầy đủ để chi phối được rộng khắp các vấn đề có thể phát sinh trong nuôi con nuôi quốc tế; thứ hai, các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế hiện nay rõ ràng vẫn là những thỏa thuận riêng lẻ giữa Việt Nam với từng nước cụ thể, trong khi số lượng các nước có hiệp định với Việt Nam lại chỉ có thể đếm trong lòng bàn tay.

Lợi ích của việc gia nhập Công ước Lahaye 1993

Để nói về sự cần thiết của việc gia nhập Công ước, ngoài việc làm rõ thực trạng quan hệ nuôi con nuôi quốc tế, khả năng hiệu chỉnh của pháp luật hiện hành, rõ ràng cần phải đánh giá tính hiệu quả của việc trở thành thành viên. Xem xét lợi ích kinh tế của việc gia nhập Công ước về một lĩnh vực chủ yếu mang tính chất xã hội như nuôi con nuôi quốc tế dường như là điều không tưởng. Nhưng dù Công ước không mang lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho các bên trong quan hệ nuôi con nuôi quốc tế, nhưng có thể tìm thấy những lợi ích nhất định cho quốc gia thành viên: đó là với một chi phí nhỏ cho việc đáp ứng các yêu cầu cần thiết của việc gia nhập, quốc gia thành viên có thể tiết kiệm một khoản kinh phí lớn cho việc tạo dựng khuôn khổ pháp lý quốc tế khá hoàn thiện và có phạm vi ảnh hưởng rộng (5) hiệu chỉnh lĩnh vực này - ví như tiết kiệm kinh phí trong đàm phán, ký kết từng điều ước song phương đơn lẻ. Còn lợi ích về khía cạnh xã hội là thực sự nổi trội khi xem xét việc gia nhập Công ước Lahaye 1993. Cụ thể là việc gia nhập Công ước Lahaye 1993 sẽ giúp tạo dựng một cách tốt nhất cuộc sống riêng (về vật chất lẫn tinh thần) của những đứa trẻ gặp phải hoàn cảnh khó khăn (như tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, mắc bệnh hiểm nghèo...). Cũng không thể không nhắc đến khía cạnh bảo vệ quyền con người từ việc gia nhập Công ước. Quyền con người là một vấn đề mang tính trọng yếu, được đề cao trên phạm vi toàn cầu. Dù còn nhiều tranh luận khác nhau về nội hàm của khái niệm quyền con người, nhưng đã có sự thống nhất cao trong việc coi các quyền trẻ em như một phần quan trọng của quyền con người (6). Như thế, việc đảm bảo cho những đứa trẻ có được điều kiện sống tốt, có được nơi che chở, giáo dưỡng cũng là một đòi hỏi thiết yếu của quyền con người. Gia nhập Công ước - với một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hợp lý - sẽ góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ quyền con người.

2. Những yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam khi gia nhập Công ước Lahaye 1993

Ngày 29/05/1993, tại khoá họp lần thứ 17 Hội nghị Lahaye về tư pháp quốc tế, các thành viên dự họp đã nhất trí thông qua Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Đây là Công ước đầu tiên mang tính phổ cập và quan trọng nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Ngoài lời nói đầu, Công ước gồm 48 điều, đề cập trên 7 vấn đề chính là: phạm vi áp dụng; các yêu cầu đối với việc nuôi con nuôi quốc tế; cơ quan trung ương của mỗi quốc gia phụ trách về nuôi con nuôi quốc tế; thủ tục cho, nhận con nuôi quốc tế; công nhận và hậu quả của việc nuôi con nuôi; quy định chung; và những điều khoản cuối cùng. Có thể nói, Công ước đã tạo dựng một khuôn khổ pháp lý bao quát và hiệu lực, mở ra khả năng hiệu chỉnh vấn đề nuôi con nuôi quốc tế không chỉ ở giai đoạn đầu của việc cho - nhận, mà còn cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em trong quá trình được nhận nuôi.

Đối chiếu với những quy định của Công ước, thì việc gia nhập cũng đòi hỏi Việt Nam phải có những điều chỉnh pháp luật trong nước cho tương thích (bởi vì Công ước Lahaye 1993 không chấp nhận bất cứ một bảo lưu nào khi gia nhập - Điều 40), cụ thể là:

Thứ nhất, về quan hệ pháp lý giữa ba bên: bố mẹ nuôi - con nuôi - bố mẹ đẻ. Theo Công ước Lahaye 1993, có mở ra khả năng về việc chấm dứt quan hệ pháp lý trước đó giữa cha mẹ đẻ với trẻ em đã được nhận làm con nuôi. Theo quy định tại Điều 26 Công ước Lahaye 1993, nếu pháp luật quốc gia ký kết - nơi thực hiện việc nuôi con nuôi - quy định rằng, quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ với trẻ em được nhận làm con nuôi sẽ chấm dứt, thì điều đó sẽ được tuân thủ. Tuy nhiên, các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành lại không mở ra khả năng như vậy, mà cho thấy vẫn tồn tại song song hai mối quan hệ pháp lý: cha mẹ nuôi - con nuôi và con nuôi - cha mẹ đẻ. Quan hệ cha mẹ đẻ - con nuôi vẫn được pháp luật Việt Nam khẳng định cả ở khía cạnh quan hệ tài sản và nhân thân. Chẳng hạn, trẻ vẫn tiếp tục được thừa kế tài sản của cha mẹ đẻ, hay con liệt sĩ dù đã làm con nuôi người khác, nhưng vẫn tiếp tục được công nhận là con của gia đình có công. Dĩ nhiên, cần nhấn mạnh rằng, nếu chúng ta vẫn giữ các quy định như vậy thì cũng không phải là một sự vi phạm Công ước Lahaye 1993 nếu chiếu theo quy định tại Điều 27 (7) - theo đó, kể cả khi quốc gia gốc không quy định về việc chấm dứt quan hệ pháp lý giữa cha mẻ đẻ - con nuôi thì sự chấm dứt quan hệ này vẫn được công nhận nếu pháp luật của quốc gia nhận con nuôi quy định phải chấm dứt quan hệ và có được sự đồng ý của những người liên quan (đã chỉ rõ tại mục c và d Điều 4). Tuy nhiên, việc duy trì các quy định này sẽ gây khó khăn cho việc chấm dứt quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ - con nuôi, bởi vì nó đòi hỏi thêm điều kiện về sự đồng ý của những người liên quan; hơn nữa sẽ tạo ra những rắc rối pháp lý cho trường hợp chúng ta là quốc gia nhận con nuôi - bởi vì rõ ràng pháp luật Việt Nam không quy định về việc chấm dứt quan hệ này, do đó, nó đương nhiên tồn tại.

Thứ hai, độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi quốc tế. Theo quy định của Công ước Lahaye 1993 thì trẻ em có thể được nhận làm con nuôi là những người dưới 18 tuổi. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam chủ yếu chỉ giải quyết việc cho làm con nuôi quốc tế đối với trẻ em dưới 15 tuổi. Trẻ em từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ được làm con nuôi quốc tế nếu thuộc diện trẻ em tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự (8).

Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền quyết định việc cho - nhận con nuôi quốc tế. Công ước Lahaye 1993 quy định các quốc gia phải chỉ định một Cơ quan trung ương có thẩm quyền để thực hiện việc cho - nhận con nuôi quốc tế, cơ quan này không chỉ là đầu mối về thông tin mà còn quyết định việc cho - nhận con nuôi quốc tế. Tuy nhiên, theo pháp luật Việt Nam hiện hành (thể hiện rõ nhất ở Luật Hôn nhân và gia đình cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành) thì thẩm quyền cho - nhận con nuôi quốc tế lại thuộc về các ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đối với trường hợp cho - nhận trẻ em ở khu vực biên giới với các nước láng giềng thì thuộc về các ủy ban nhân dân cấp xã. Có lẽ để phù hợp với Công ước, Cơ quan trung ương được chỉ định của Việt Nam nên là Bộ Tư pháp (9).

Ngoài ba vấn đề then chốt nói trên, cũng cần có những hiệu chỉnh cần thiết pháp luật trong nước về các vấn đề như: sự đồng ý của người mẹ đẻ trong việc cho con nuôi (Mục c Điều 4 Công ước); hay thời kỳ thử thách đối với bố mẹ nuôi (Điều 21 Công ước)(10).

* *

*

Không chỉ là lợi ích có được về một khuôn khổ pháp lý quốc tế khá hoàn thiện về nuôi con nuôi quốc tế, gia nhập Công ước Lahaye 1993 thực sự còn là đòi hỏi thực tế của việc thiết lập mối quan hệ hợp tác nuôi con nuôi với một số nước quan trọng, có nhu cầu lớn (11). Gia nhập Công ước này mang lại nhiều cái được, một số việc phải làm như hiệu chỉnh các quy định pháp luật hiện hành đã nói ở trên cũng không phải là quá khó khăn, thậm chí nó còn góp phần hài hòa hóa pháp luật Việt Nam với các nước. Việc gia nhập Công ước Lahaye 1993 đã được chúng ta đặt ra từ những năm 90 của thế kỷ 20. Trong thời gian gần đây, Chính phủ và ủy ban thường vụ Quốc hội đã có những động thái mạnh mẽ để chuẩn bị gia nhập Công ước Lahaye 1993 và việc gia nhập đang trở nên hiện thực hơn bao giờ hÕt(12).

(Nghiên cứu lập pháp số 5 (142) tháng 3/2009)

(1) Xem “Pháp luật tương trợ tư pháp quốc tế”, Vụ pháp luật quốc tế - Bộ Tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 11.

(2) Xem bài “Xiết chặt kiểm soát hồ sơ cho con nuôi người nước ngoài”, đăng trên website: http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2008/07/3BA04D54/.

(3) Xem “Báo cáo điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình” ngày 01/04/2005 của Tổng cục Thống kê (website: www.gso.gov.vn).

(4) Đó là các Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam với: Pháp (01/02/2000), Đan Mạch (26/05/2003), Italia (13/06/2003), Ailen (23/09/2003), Thụy Điển (04/02/2004), 3 cộng đồng ngôn ngữ thuộc Vương quốc Bỉ (17/03/2005), Mỹ (21/6/2005), Canada (27/06/2005), Bang Québec - Canada (15/09/2005), Thụy Sĩ (20/12/2005) và Tây Ban Nha (05/12/2007).

(5) Hiện nay số quốc gia thành viên của Công ước đã là 75.

(6) Xem “Human rights in developing countries”, YearBook 1994, edited by Peter Baehr, Hilde Hey, Jacqueline Smith, and Theresa Swinehart, Kluwer Law and Taxation Publishers, Nordic Human Rights Publications.

(7) Trong một số bài nghiên cứu và báo chí, một số chuyên gia cho rằng việc quy định của pháp luật Việt Nam về quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ - con nuôi là mâu thuẫn với Công ước Lahaye 1993. Việc nhận định như vậy e rằng hơi quá.

(8) Xem khoản 1 Điều 36 Nghị định 69/2006/NĐ-CP.

(9) Tờ trình của Chính phủ về việc gia nhập Công ước Lahaye 1993 của Việt Nam cũng đã dự kiến như vậy (xem bài viết về “Phiên họp thứ 10 ủy ban thường vụ Quốc hội” của tác giả Khánh Vân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 13/2008, Văn phòng Quốc hội).

(10) Có thể xem thêm bài viết “Một số vấn đề cần giải quyết khi Việt Nam gia nhập Công ước Lahaye năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước”, ThS. Nguyễn Hồng Bắc, Tạp chí Luật học số chuyên đề 3/2003 - Đại học Luật Hà Nội.

(11) Trường hợp Mỹ là một điển hình, bởi lẽ Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam và Mỹ đã chính thức hết hiệu lực vào ngày 1/9/2008. Thế nên, trong bối cảnh Mỹ vừa mới chính thức chịu sự hiệu chỉnh của Công ước Lahaye 1993 từ năm 2008, thì việc Việt Nam gia nhập Công ước Lahaye 1993 sẽ tiếp tục tạo dựng được một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh chung giữa hai nước về vấn đề này.

(12) Xem thông tin từ bài viết “Phiên họp thứ 10 ủy ban thường vụ Quốc hội” của tác giả Khánh Vân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 13/2008, Văn phòng Quốc hội.

Ths Nguyễn Bá Bình- Giảng viên Đại học Luật Hà Nội

Nguồn: tạp chí nghiên cứu lập pháp

(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

3. Dự thảo luật nuôi con nuôi

DỰ THẢO LUẬT NUÔI CON NUÔI Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Quốc hội ban hành Luật Nuôi con nuôi.

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định về điều kiện nuôi con nuôi; trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi; chấm dứt việc nuôi con nuôi; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về nuôi con nuôi; xử lý vi phạm về nuôi con nuôi.

Điều 2. Đối tượng áp dụng

Luật này được áp dụng đối với quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau; giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại Việt Nam.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, những từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi sau khi đã đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2. Nuôi con nuôi đơn giản là việc nuôi con nuôi làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, nhưng không làm chấm dứt quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa người được nhận làm con nuôi với cha, mẹ đẻ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Nuôi con nuôi trọn vẹn là việc nuôi con nuôi làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, đồng thời làm chấm dứt quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa người được nhận làm con nuôi với cha, mẹ đẻ.

4. Người nhận con nuôi là vợ chồng hoặc cá nhân. Vợ chồng là hai người khác giới tính, có quan hệ hôn nhân hợp pháp.

5. Nuôi con nuôi trong nước là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau thường trú tại Việt Nam.

6. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.

7. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được nhận làm con nuôi là trẻ em mồ côi; trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em bị lạm dụng hay ngược đãi nghiêm trọng và trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo khác.

8. Trẻ em mồ côi là trẻ em mà cả cha và mẹ đã chết hoặc có cha hay mẹ đã chết, còn người kia không xác định được.

9. Trẻ em bị bỏ rơi là trẻ sơ sinh bị bỏ lại cơ sở y tế mà không được cha, mẹ, người thân thích thừa nhận hoặc không xác định được cha, mẹ, người thân thích và trẻ em được tìm thấy mà không xác định được cha, mẹ, người thân thích.

10. Cơ sở nuôi dưỡng trẻ em là cơ sở trợ giúp trẻ em, cơ sở bảo trợ xã hội và cơ sở khác được thành lập hợp pháp tại Việt Nam, có chức năng nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em.

Điều 4. Bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi và quyền nuôi con nuôi

Nhà nước bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi của trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và quyền nuôi con nuôi của cá nhân được thực hiện theo Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.

Điều 5. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi

1. Khi xem xét giải quyết việc nuôi con nuôi phải tôn trọng quyền của trẻ em là được sống trong gia đình gốc; việc nuôi con nuôi chỉ là giải pháp thay thế gia đình đối với trẻ em.

2. Chỉ giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài sau khi đã thực hiện biện pháp tìm gia đình thay thế mà không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi.

3. Ưu tiên giải quyết làm con nuôi đối với trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo khác mà không phải tiến hành biện pháp tìm gia đình thay thế.

Điều 6. Mục đích nuôi con nuôi

Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em được nhận làm con nuôi, bảo đảm trẻ em được thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình.

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình trực tuyến

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình gọi số: 1900.6162

Điều 7. Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi

1. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã) có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.

2. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

3. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau định cư ở nước ngoài, việc công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam tạm trú ở nước ngoài làm con nuôi.

Điều 8. Quyền của trẻ em được biết về nguồn gốc

Trẻ em được nhận làm con nuôi có quyền được biết về nguồn gốc của mình.

Điều 9. Giữ bí mật về nuôi con nuôi trọn vẹn

Các thông tin liên quan đến người nhận con nuôi, người được nhận làm con nuôi trọn vẹn này được giữ bí mật và chỉ được sử dụng trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, phù hợp với quy định tại Điều 8 của Luật này.

Điều 10. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi nhằm bảo vệ trẻ em, bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em được nhận làm con nuôi, có biện pháp ngăn ngừa và xử lý các hành vi mua bán trẻ em hoặc lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi.

Điều 11. Áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi

1. Trong trường hợp Luật này có quy định khác với các văn bản pháp luật khác về nuôi con nuôi, thì áp dụng quy định của Luật này.

2. Trong trường hợp điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

Điều 12. Chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí

Chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí giải quyết việc nuôi con nuôi, lệ phí đăng ký việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.

Điều 13. Các hành vi bị cấm

1. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục, mua bán trẻ em.

2. Môi giới nuôi con nuôi nhằm mục đích thu lợi.

3. Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người già yếu, cô đơn để hưởng chế độ, chính sách của Nhà nước hoặc để vụ lợi mà không vì mục đích nuôi con nuôi.

4. Cho, nhận và làm thủ tục đăng ký nuôi con nuôi lần thứ hai đối với người đang được nhận làm con nuôi.

5. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, chính sách về dân số, kế hoạch hoá gia đình.

6. Việc nuôi con nuôi giữa ông, bà và cháu, giữa anh, chị, em với nhau dẫn đến làm đảo lộn ngôi thứ trong quan hệ gia đình.

7. Việc nuôi con nuôi xuất phát từ định kiến giới, dẫn đến sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ.

8. Việc nuôi con nuôi dẫn đến vi phạm phong tục, tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Chương II

NUÔI CON NUÔI TRONG NƯỚC

Mục 1

QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 14. Hình thức nuôi con nuôi

1. Việc nuôi con nuôi tại Việt Nam được thực hiện theo hình thức nuôi con nuôi đơn giản và nuôi con nuôi trọn vẹn.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi.

Điều 15. Biện pháp tìm gia đình thay thế cho trẻ em

1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 2 Điều này, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và khả năng của mình, thực hiện các biện pháp cần thiết để tìm gia đình thay thế cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

2. Việc thông báo tìm gia đình thay thế cho trẻ em được thực hiện như sau:

a) Đối với trẻ em sống tại gia đình mà cha, mẹ, ông, bà, anh, chị ruột hoặc những người thân thích khác không có khả năng nuôi dưỡng trẻ em, thì cha, mẹ hoặc người giám hộ của trẻ em có trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp xã để tìm biện pháp hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em hoặc tìm gia đình thay thế cho trẻ em.

b) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tìm biện pháp hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại địa phương hoặc thông báo trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình địa phương trong thời hạn 30 ngày để tìm gia đình thay thế cho trẻ em. Đối với trẻ em bị bỏ rơi, thì việc thông báo tìm gia đình thay thế được thực hiện kết hợp với thông báo về trẻ em bị bỏ rơi trước khi làm thủ tục khai sinh theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. Việc cho trẻ em làm con nuôi được giải quyết sau khi hết thời hạn thông báo.

c) Đối với trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng, thì Sở Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc cơ quan chủ quản có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ và danh sách trẻ em, gửi Sở Tư pháp thẩm tra để chuyển cho Cơ quan con nuôi Trung ương.

d) Cơ quan con nuôi Trung ương có trách nhiệm thông báo trên Cổng thông tin điện tử trong thời hạn 60 ngày để tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Điều 16. Đăng ký nhu cầu nhận nuôi con nuôi

Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước có đủ điều kiện và nhu cầu nhận trẻ em làm con nuôi mà chưa xác định được trẻ em cần xin làm con nuôi, thì đăng ký nhu cầu với Sở Tư pháp, nơi thường trú hoặc với Cơ quan con nuôi Trung ương.

Điều 17. Sự đồng ý của cha mẹ đẻ, người giám hộ và người được nhận làm con nuôi

Việc nhận trẻ em làm con nuôi phải được sự đồng ý của cha, mẹ đẻ của trẻ em. Trường hợp cha hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được, thì chỉ cần sự đồng ý của người kia; nếu cả cha, mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được, thì phải được sự đồng ý của người giám hộ của trẻ em.

Việc nhận trẻ em từ 09 tuổi trở lên làm con nuôi còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó.

Điều 18. Yêu cầu về sự đồng ý để trẻ em làm con nuôi

1. Trước khi đồng ý để trẻ em làm con nuôi, những người quy định tại Điều 17 của Luật này phải được thông báo, tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; hình thức nuôi con nuôi đơn giản hay trọn vẹn; quyền, nghĩa vụ giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi; việc không chấm dứt hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa cha, mẹ đẻ và con được nhận làm con nuôi.

2. Việc đồng ý để trẻ em làm con nuôi phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe doạ hay mua chuộc, không được trả tiền hoặc bồi thường để có được sự đồng ý cho trẻ em làm con nuôi.

3. Việc đồng ý để trẻ em làm con nuôi phải được thể hiện bằng văn bản theo mẫu quy định.

4. Chỉ được đồng ý để trẻ em làm con nuôi sau khi trẻ em đã được sinh ra và sự đồng ý đó không thể rút lại sau khi đã đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Mục 2

NUÔI CON NUÔI ĐƠN GIẢN

Điều 19. Điều kiện đối với người nhận con nuôi đơn giản

1. Người nhận con nuôi đơn giản phải có các điều kiện sau:

a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

c) Có tư cách đạo đức tốt;

d) Có điều kiện thực tế bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi chưa thành niên;

đ) Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

2. Trường hợp vợ, chồng cùng nhận con nuôi thì cả vợ, chồng đều phải có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này.

3. Người nhận con nuôi có thể nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi đơn giản.

Điều 20. Người được nhận làm con nuôi đơn giản

Người được nhận làm con nuôi đơn giản là trẻ em từ 15 tuổi trở xuống không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này.

Người trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu, cô đơn.

Điều 21. Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ nuôi và con nuôi đơn giản

1. Kể từ thời điểm việc nuôi con nuôi được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cha, mẹ nuôi và con nuôi đơn giản có quyền, nghĩa vụ pháp lý của cha, mẹ đẻ và con theo quy định từ Điều 34 đến Điều 46 của Luật hôn nhân và gia đình.

2. Con nuôi đơn giản trước đây là con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng, thì vẫn tiếp tục được hưởng quyền lợi của con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật.

3. Theo thỏa thuận giữa cha, mẹ đẻ và cha, mẹ nuôi, con nuôi đơn giản được thay đổi họ theo họ của cha, mẹ nuôi hoặc vẫn giữ nguyên họ của mình; vẫn duy trì quyền, nghĩa vụ với cha, mẹ đẻ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Mục 3

NUÔI CON NUÔI TRỌN VẸN

Điều 22. Điều kiện đối với người nhận con nuôi trọn vẹn

Phương án 1:

Người nhận con nuôi trọn vẹn phải có các điều kiện quy định tại Điều 19 của Luật này.

Phương án 2:

Ngoài các điều kiện quy định tại Điều 19 của Luật này, người nhận con nuôi trọn vẹn còn phải có các điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở ổn định bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi và không có tiền án.

Điều 23. Trẻ em được nhận làm con nuôi trọn vẹn

Trẻ em được nhận làm con nuôi trọn vẹn là trẻ em từ đủ 15 tuổi trở xuống đang sống tại gia đình hoặc cơ sở nuôi dưỡng, bao gồm:

1. Trẻ em mồ côi;

2. Trẻ em bị bỏ rơi;

3. Trẻ em mà cha, mẹ đẻ đồng ý cho làm con nuôi trọn vẹn.

Điều 24. Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ nuôi và con nuôi trọn vẹn

1. Kể từ thời điểm việc nuôi con nuôi trọn vẹn được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cha, mẹ nuôi và con nuôi trọn vẹn có quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con theo quy định từ Điều 34 đến Điều 46 của Luật hôn nhân và gia đình.

Con nuôi trọn vẹn còn có quyền, nghĩa vụ theo quy định tại các điều 47, 48 và 49 của Luật hôn nhân và gia đình.

2. Con nuôi trọn vẹn trước đây là con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng, vẫn được hưởng quyền lợi của con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật.

Trường hợp cha, mẹ nuôi là thương binh, người có công với cách mạng, thì con nuôi trọn vẹn được hưởng mọi quyền lợi của con thương binh, con của người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật; cha, mẹ nuôi là người dân tộc ít người, thì con nuôi trọn vẹn cũng được hưởng quyền lợi như trẻ em thuộc dân tộc ít người.

3. Con nuôi trọn vẹn được thay đổi họ theo họ của cha, mẹ nuôi.

Mục 4

THỦ TỤC ĐĂNG KÝ NUÔI CON NUÔI

Điều 25. Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi

1. Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi đơn giản gồm các giấy tờ sau:

a) Đơn của người nhận con nuôi theo mẫu quy định;

b) Bản sao giấy khai sinh của người được nhận làm con nuôi;

c) Văn bản đồng ý để trẻ em làm con nuôi theo mẫu quy định hoặc/và quyết định tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng đối với trẻ em được nhận làm con nuôi đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng.

2. Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi trọn vẹn gồm các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này và các giấy tờ sau:

a) Giấy khám sức khoẻ của người nhận con nuôi do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp;

b) Phiếu lý lịch tư pháp;

c) Đối với trẻ em bị bỏ rơi, phải có Biên bản xác nhận về tình trạng trẻ em bị bỏ rơi; đối với trẻ em mồ côi, phải có bản sao Giấy chứng tử của cha, mẹ đẻ.

3. Hồ sơ được lập thành 02 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi.

Khi nộp hồ sơ, người nhận con nuôi phải xuất trình chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu và giấy đăng ký kết hôn nếu vợ, chồng cùng nhận con nuôi.

Điều 26. Hướng dẫn lập hồ sơ xin nhận con nuôi

1. Trong thời hạn thông báo tìm gia đình thay thế cho trẻ em theo quy định tại Điều 15 của Luật này mà có người trong nước muốn nhận trẻ em làm con nuôi, Sở Tư pháp hướng dẫn đương sự lập hồ sơ theo quy định tại Điều 25 của Luật này để nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi.

2. Trường hợp trẻ em sống tại cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm lập và cấp hồ sơ của trẻ em cho người nhận con nuôi.

Điều 27. Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi

1. Đối việc nuôi con nuôi đơn giản, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, nếu xét thấy người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của Luật này, thì quyết định đăng ký và ghi vào sổ theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch.

2. Đối với việc nuôi con nuôi trọn vẹn, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và xác minh các điều kiện của người nhận con nuôi. Nếu xét thấy người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Luật này, thì quyết định đăng ký và ghi vào sổ việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch.

3.Trường hợp người nhận con nuôi, người được nhận làm con nuôi không đáp ứng đủ điều kiện, việc nuôi con nuôi thuộc trường hợp bị cấm, mục đích nuôi con nuôi không phù hợp với quy định của pháp luật, Uỷ ban nhân dân xã từ chối đăng ký và thông báo bằng văn bản cho đương sự.

Mục 5

CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI

Điều 28. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi

Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau:

1. Con nuôi đã thành niên và cha, mẹ nuôi tự nguyện thoả thuận chấm dứt việc nuôi con nuôi khi có lý do chính đáng.

2. Cha, mẹ nuôi và cha, mẹ đẻ thỏa thuận chấm dứt việc nuôi con nuôi, vì lợi ích tốt nhất của con nuôi; đối với con nuôi chưa thành niên từ 09 tuổi trở lên, thì phải có ý kiến của trẻ em.

3. Cha mẹ nuôi gặp sự cố bất ngờ về sức khỏe, tài chính, gia đình, xã hội, dẫn đến mất điều kiện và khả năng thực tế để bảo đảm việc nuôi con nuôi.

4. Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi.

5. Cha, mẹ nuôi bị hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con nuôi chưa thành niên hoặc bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con nuôi; dụ dỗ, ép buộc con nuôi thực hiện hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Điều 29. Người có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi

1. Cha, mẹ nuôi.

2. Con nuôi đã thành niên.

3. Cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi.

4. Cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, khi có căn cứ quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 28 của Luật này:

a) Cơ quan tư pháp;

b) Hội liên hiệp phụ nữ;

c) Cơ quan Lao động – Thương binh và xã hội.

Điều 30. Cơ quan có thẩm quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi

Tòa án nhân dân cấp huyện, nơi cha, mẹ nuôi thường trú, có thẩm quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Điều 31. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi

1. Quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ thời điểm quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi của Toà án có hiệu lực pháp luật.

Nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Tòa án ra quyết định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng.

2. Trường hợp con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi, thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước đây.

Chương III

NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Mục 1

QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 32. Phạm vi áp dụng

Chương này được áp dụng để giải quyết việc người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, công dân Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi và việc nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại Việt Nam.

Điều 33. Hình thức nuôi con nuôi và pháp luật áp dụng

1. Việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chỉ được thực hiện theo hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn.

2. Việc nuôi con nuôi diễn ra tại Việt Nam, thì quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ nuôi và con nuôi được xác định theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam; việc nuôi con nuôi diễn ra ở nước ngoài, thì quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ nuôi và con nuôi được xác định theo pháp luật của nước nơi diễn ra việc nuôi con nuôi.

Điều 34. Điều kiện đối với người nhận con nuôi

1. Người thường trú tại nước mà nước đó với Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi, có thể nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, nếu có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 22 của Luật này và pháp luật của nước, nơi người đó thường trú.

2. Người thường trú tại nước mà nước đó không cùng là thành viên của điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với Việt Nam, có thể nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, nếu có đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều này và thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Có vợ, chồng, cha, mẹ là công dân Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam.

b) Có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được nhận làm con nuôi.

c) Đang có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi.

d) Có thời gian công tác, học tập, làm việc liên tục tại Việt Nam từ 12 tháng trở lên.

Điều 35. Trẻ em được nhận làm con nuôi

Trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ em quy định tại Điều 23 của Luật này, nếu sau khi đã thực hiện biện pháp tìm gia đình thay thế theo quy định tại Điều 15 của Luật này mà không được công dân trong nước nhận làm con nuôi.

Điều 36. Nhận trẻ em làm con nuôi để chữa bệnh

Trường hợp người nước ngoài nhận trẻ em khuyết tật, tàn tật, nhiễm HIV/AIDS, nạn nhân của chất độc hóa học hoặc mắc bệnh hiểm nghèo làm con nuôi để có điều kiện chữa bệnh ở nước ngoài, thì được xem xét giải quyết mà không cần thực hiện biện pháp tìm gia đình thay thế theo quy định tại Điều 15 của Luật này.

Điều 37. Cơ quan có thẩm quyền giới thiệu trẻ em làm con nuôi

Cơ quan con nuôi Trung ương có thẩm quyền giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài theo thủ tục quy định tại Điều 42 của Luật này.

Điều 38. Dịch, hợp pháp hoá giấy tờ, tài liệu

1. Giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ nhận con nuôi do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc công chứng phải được hợp pháp hoá lãnh sự khi sử dụng tại Việt Nam, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

2. Giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ nhận con nuôi bằng tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt và bản dịch phải được chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Mục 2

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC TRẺ EM LÀM CON NUÔI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Điều 39. Yêu cầu về hồ sơ của người nhận con nuôi

1. Hồ sơ của người nhận con nuôi gồm các giấy tờ sau:

a) Đơn xin nhận con nuôi theo mẫu quy định;

b) Bản chụp Hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế;

c) Giấy phép do cơ quan có thẩm quyền của nước, nơi người nhận con nuôi thường trú cấp, cho phép người đó nhận con nuôi Việt Nam;

d) Bản điều tra về tâm lý, gia đình, xã hội của người nhận con nuôi do cơ quan có thẩm quyền của nước, nơi người nhận con nuôi thường trú cấp;

đ) Giấy xác nhận về tình trạng sức khoẻ do tổ chức y tế có thẩm quyền của nước, nơi người nhận con nuôi thường trú hoặc tổ chức y tế từ cấp tỉnh trở lên của Việt Nam cấp chưa quá 12 tháng, tính đến ngày Cơ quan con nuôi Trung ương nhận hồ sơ, xác nhận người đó có đủ sức khoẻ để bảo đảm việc nuôi con nuôi;

e) Giấy xác nhận về tình trạng tài sản, khả năng kinh tế, tình hình thu nhập, chỗ ở của người nhận con nuôi đủ bảo đảm việc nuôi con nuôi;

g) Phiếu lý lịch tư pháp của người nhận con nuôi do cơ quan có thẩm quyền của nước, nơi người đó thường trú cấp chưa quá 12 tháng, tính đến ngày Cơ quan con nuôi Trung ương nhận hồ sơ, xác nhận người đó có nhân thân tốt, không có tiền án;

h) Bản sao giấy chứng nhận kết hôn của hai người nhận con nuôi là vợ chồng hoặc bản cam kết không có quan hệ đồng tính, nếu người nhận con nuôi là độc thân.

2. Các giấy tờ nói tại khoản 1 Điều này được lập thành 02 bộ và nộp tại Cơ quan con nuôi Trung ương.

Điều 40. Yêu cầu về hồ sơ của trẻ em

1. Hết thời hạn thông báo tìm gia đình thay thế cho trẻ em theo quy định tại Điều 15 của Luật này mà không có người trong nước nhận làm con nuôi, Sở Tư pháp hướng dẫn cha, mẹ đẻ, người giám hộ hoặc người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em.

2. Hồ sơ của trẻ em gồm các giấy tờ sau:

a) Bản sao Giấy khai sinh của trẻ em;

b) Giấy chứng nhận về sức khoẻ của trẻ em do cơ quan y tế cấp tỉnh trở lên cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày Cơ quan con nuôi Trung ương nhận hồ sơ;

c) Giấy đồng ý để trẻ em làm con nuôi theo mẫu quy định;

d) Hai ảnh màu của trẻ em chụp toàn thân, nhìn thẳng, cỡ 10cm x 15cm;

đ) Đối với trẻ em bị bỏ rơi, phải có Biên bản xác nhận về việc trẻ em bị bỏ rơi; đối với trẻ em mồ côi, phải có bản sao Giấy chứng tử của cha, mẹ đẻ;

e) Giấy tờ chứng minh việc đã thực hiện biện pháp tìm gia đình thay thế cho trẻ em theo quy định tại Điều 15 của Luật này, trừ trường hợp nhận trẻ em nói tại Điều 36 của Luật này.

3. Hồ sơ của trẻ em được lập thành 03 bộ và nộp cho Sở Tư pháp.

Điều 41. Kiểm tra, xác minh hồ sơ của trẻ em

1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của trẻ em, Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra, xác minh toàn bộ hồ sơ. Trường hợp cần bổ sung giấy tờ hoặc trong hồ sơ có vấn đề chưa rõ, Sở Tư pháp yêu cầu bổ sung hoặc giải trình.

2. Đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có nguồn gốc không rõ ràng hoặc có dấu hiệu mua bán trẻ em, Sở Tư pháp đề nghị cơ quan Công an cùng cấp điều tra, xác minh.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Sở Tư pháp, cơ quan Công an có trách nhiệm điều tra, xác minh và trả lời kết quả cho Sở Tư pháp, trong đó nêu rõ kết quả điều tra, xác minh về vấn đề Sở Tư pháp yêu cầu.

3. Nếu xét thấy hồ sơ của trẻ em đầy đủ, hợp lệ, trẻ em có nguồn gốc rõ ràng và có đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi, Sở Tư pháp gửi 01 bộ hồ sơ cho Cơ quan con nuôi Trung ương.

Điều 42. Thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi

1. Sau khi kết thúc thời hạn tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em theo quy định tại Điều 15 của Luật này mà không có người nhận trẻ em làm con nuôi, thì căn cứ vào nhu cầu, đặc điểm, nguyện vọng và lợi ích tốt nhất của trẻ em, Cơ quan con nuôi Trung ương tiến hành giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài và thông báo bằng văn bản cho người nhận con nuôi biết về trẻ em được giới thiệu.

2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Cơ quan con nuôi Trung ương, người nhận con nuôi có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về trẻ em đã được giới thiệu làm con nuôi.

Trường hợp người nhận con nuôi từ chối mà không có lý do chính đáng, thì sau 12 tháng mới được giới thiệu trẻ em khác.

Điều 43. Trình tự xử lý hồ sơ và ra quyết định

1. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý của người nhận con nuôi, Cơ quan con nuôi Trung ương gửi văn bản cho Sở Tư pháp để trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, kèm theo 01 bộ hồ sơ của người nhận con nuôi, đồng thời thông báo cho người nhận con nuôi đến Việt Nam để hoàn tất thủ tục.

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Cơ quan con nuôi Trung ương gửi, Sở Tư pháp tiến hành báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, căn cứ văn bản giới thiệu của Cơ quan con nuôi Trung ương, ý kiến đề xuất của Sở Tư pháp, quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em làm con nuôi.

Điều 44. Đăng ký vào sổ và giao nhận con nuôi

1. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp đăng ký việc nuôi con nuôi vào sổ hộ tịch theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch và tổ chức việc giao nhận con nuôi.

2. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày hoàn tất thủ tục giao nhận con nuôi, Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi cho Cơ quan con nuôi Trung ương quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh cho trẻ em làm con nuôi, Biên bản giao nhận trẻ em làm con nuôi và các giấy tờ liên quan khác để Cơ quan con nuôi Trung ương thực hiện việc theo dõi chung.

Điều 45. Trách nhiệm báo cáo tình hình phát triển của con nuôi

Định kỳ sáu tháng một lần, cha mẹ nuôi có trách nhiệm gửi cho Cơ quan con nuôi Trung ương và Sở Tư pháp báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi trong ba năm đầu tiên; báo cáo có thể được gửi thông qua tổ chức con nuôi nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam.

Mục 3

CÁC QUY ĐỊNH KHÁC VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Điều 46. Công dân Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi

1. Công dân Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi phải tuân theo pháp luật của nước nơi trẻ em có quốc tịch và theo quy định tại Điều 22 của Luật này.

2. Theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, Sở Tư pháp tiến hành kiểm tra, xác minh điều kiện về tâm lý, hoàn cảnh gia đình và xã hội, khả năng kinh tế, sức khoẻ và các điều kiện khác của người nhận con nuôi; Cơ quan con nuôi Trung ương cấp giấy xác nhận người nhận con nuôi có đủ điều kiện để nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam.

3. Sau khi được giải quyết nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi, công dân Việt Nam có trách nhiệm làm thủ tục ghi chú việc nuôi con nuôi tại Sở Tư pháp, nơi người đó thường trú, theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch.

Điều 47. Hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam

1. Tổ chức con nuôi nước ngoài của nước là thành viên của điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với Việt Nam, có thể được cấp phép hoạt động nhân đạo phi lợi nhuận tại Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau:

a) Được cơ quan có thẩm quyền nước nơi thành lập cho phép hoạt động tại Việt Nam;

b) Người đại diện có đủ điều kiện về đạo đức, chuyên môn và kinh nghiệm;

c) Có thời gian hoạt động trong lĩnh vực con nuôi quốc tế liên tục từ 03 năm trở lên, không vi phạm pháp luật trong suốt thời gian hoạt động và được cơ quan có thẩm quyền của nước nơi tổ chức thành lập xác nhận.

2. Chính phủ quy định về thủ tục cấp, gia hạn, sửa đổi, thu hồi giấy phép; quyền và nghĩa vụ của tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam.

Điều 48. Việc nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại Việt Nam

1. Việc nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại Việt Nam được xem xét giải quyết, nếu các bên có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định của Luật này.

2. Thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại Việt Nam được thực hiện theo thủ tục giải quyết việc người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.

Điều 49. Đăng ký việc nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài

Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau định cư ở nước ngoài mà không đồng thời có quốc tịch nước ngoài, việc công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam tạm trú ở nước ngoài làm con nuôi và việc người nước ngoài nhận con nuôi là trẻ em Việt Nam đang ở nước ngoài chữa bệnh theo thủ tục do Chính phủ quy định.

Chương IV

TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC VỀ NUÔI CON NUÔI

Điều 50. Trách nhiệm của Chính phủ

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nuôi con nuôi; chỉ đạo Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành chức năng đàm phán với cơ quan có thẩm quyền của các nước láng giềng để giải quyết những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với công dân của nước láng giềng trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.

Điều 51. Trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

1. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi trong phạm vi cả nước; báo cáo Chính phủ về tình hình thi hành pháp luật về nuôi con nuôi; thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan con nuôi Trung ương theo quy định của Luật này.

2. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi; chỉ đạo, hướng dẫn ngành lao động, thương binh và xã hội trong công tác quản lý, nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng; bảo đảm việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi theo đúng quy định của pháp luật.

3. Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi; chỉ đạo Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước tiếp nhận và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

4. Bộ Công an phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi; chỉ đạo thực hiện các biện pháp ngăn ngừa và xử lý các hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm mua bán, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục trẻ em; hướng dẫn Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác minh nguồn gốc của trẻ em được cho làm con nuôi khi có yêu cầu.

5. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi.

Điều 52. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi tại địa phương; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về nuôi con nuôi theo quy định của Luật này.

2. Ủy ban nhân dân cấp xã định kỳ kiểm tra việc thực hiện nuôi con nuôi tại địa phương; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về nuôi con nuôi theo quy định của Luật này.

Điều 53. Trách nhiệm của tổ chức chính trị – xã hội

1. Mặt trận Tổ quốc các cấp tham gia giám sát việc thực hiện nuôi con nuôi, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.

2. Hội Liên hiệp phụ nữ và các thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc có trách nhiệm vận động các thành viên của mình thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, tư vấn pháp luật về nuôi con nuôi; kịp thời hòa giải mâu thuẫn về nuôi con nuôi trong nhân dân; tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con nuôi.

Chương V

XỬ LÝ VI PHẠM

Điều 54. Xử lý vi phạm pháp luật trong quan hệ nuôi con nuôi

Người nào vi phạm điều kiện nuôi con nuôi; cản trở việc nuôi con nuôi đúng pháp luật; giả mạo giấy tờ để đăng ký nuôi con nuôi; hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con nuôi, cha mẹ nuôi; lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi; không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc con nuôi; phân biệt đối xử giữa con nuôi và con đẻ hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật khác về nuôi con nuôi, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Điều 55. Xử lý vi phạm pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn

Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đăng ký nuôi con nuôi trái pháp luật; vi phạm thẩm quyền, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi; không thực hiện yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con nuôi hoặc cha, mẹ nuôi; có hành vi khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật về nuôi con nuôi, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Chương VI

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 56. Hiệu lực thi hành

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.

Điều 57. Quy định chuyển tiếp

Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày Luật này có hiệu lực, nhưng quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đã được thừa nhận trong cộng đồng dân cư, thì được đăng ký quá hạn và công nhận có giá trị pháp lý.

Chính phủ quy định thủ tục đăng ký quá hạn đối với việc nuôi con nuôi quy định tại Điều này, bảo đảm thuận lợi và phù hợp với điều kiện thực tế của nhân dân ở các vùng, miền.

Điều 58. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật này; hướng dẫn những nội dung cần thiết khác của Luật để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.

Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 7, thông qua ngày … tháng … năm 2010.

CHỦ TỊCH QUỐC HỘI

Nguyễn Phú Trọng

4. Một số vấn đề về điều kiện nuôi con nuôi

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có quy định về điều kiện nuôi con nuôi. Tuy nhiên có thể thấy, quy định về điều kiện nuôi con nuôi chưa có sự thống nhất trong các văn bản pháp luật, chưa rõ ràng, còn quá đơn giản, chưa phản ánh và phù hợp với bản chất của quan hệ cho – nhận con nuôi. Trong bài viết này chúng tôi muốn trao đổi một số ý kiền về việc cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn các quy định về điều kiện nuôi con nuôi, nhằm đảm bảo việc n

Trước hết cần nhận thức rằng, việc cho – nhận trẻ em làm con nuôi chỉ thực sự cần thiết và vì lợi ích của trẻ em được cho làm con nuôi khi trẻ em đó không thể được nuôi dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt của mình vì những lý do nhất định. Chỉ khi đó việc cho – nhận trẻ em làm con nuôi mới phù hợp với quyền của trẻ em được sống trong gia đình, phù hợp với nguyên tắc: “Trẻ em không bị buộc cách ly khỏi cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ, trừ trường hợp một sự cách ly như thế là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ em”(1). Ngay cả trong trường hợp phải cách ly khỏi cha mẹ thì ý muốn của trẻ em cũng phải được quan tâm trước tiên khi trẻ em có khả năng thể hiện ý chí của mình, Vì vậy, việc đưa trẻ em ra khỏi gia đình ruột thịt của mình để làm con nuôi người khác chỉ có thể xuất phát từ lợi ích của chính trẻ em. Do đó, quy định về các điều kiện của việc cho – nhận con nuôi phải xuất phát từ nguyên tắc cơ bản này.

Xuất phát từ bản chất của việc cho – nhận con nuôi là xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi nên việc nuôi con nuôi phải đáp ứng được các điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Các điều kiện đó vừa phải đảm bảo việc cho – nhận con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, đồng thời đảm bảo tạo ra môi trường gia đình tốt nhất cho việc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em được nhận làm con nuôi. Do đó, các điều kiện cho – nhận con nuôi cần được xem xét từ các góc độ sau:

Một số vấn đề về điều kiện nuôi con nuôi

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình gọi số - 1900.6162

1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi

Theo pháp luật hiện hành, điều kiện của người được nhận làm con nuôi chỉ bị ràng buộc bởi độ tuổi. Theo quy định tại Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, người được nhận làm con nuôi là người từ 15 tuổi trở xuống, trừ trường hợp con nuôi là người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn. Tuy nhiên pháp luật không quy định độ tuổi tối đa của người làm con nuôi trong những trường hợp này. Có thể thấy, quy định này mặc dù phản ánh truyền thống đạo đức của dân tộc nhưng có phần không phù hợp với thực tế, với bản chất của việc nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi trước hết hướng tới đối tượng là trẻ em không được nuôi dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt nên việc nuôi con nuôi là vì lợi ích của trẻ em được nhận nuôi. Với quy định người trên 15 tuổi cũng có thể được nhận làm con nuôi mà không giới hạn độ tuổi tối đa là quá mở rộng diện những người có thể được nhận làm con nuôi. Điều đó không phù hợp với thực tế đời sống nên không có tính khả thi.

Mặt khác, việc chỉ quy định độ tuổi mà không kèm theo bất cứ điều kiện nào khác của người được cho làm con nuôi đã dẫn đến nhận thức rằng mọi trẻ em từ 15 tuổi trở xuống đều có thể được cho làm con nuôi. Điều này là không phù hợp với bản chất của việc cho – nhận con nuôi là chỉ cho trẻ em làm con nuôi khi trẻ em đó không thể được chăm sóc, nuôi dưỡng trong gia đình ruột thịt. Do đó, với quy định này đã dẫn đến hiện tượng lợi dụng việc cho – nhận con nuôi nhằm những mục đích trục lợi khác, mà không nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Ví dụ, việc cho trẻ em làm con nuôi của người thương binh, người có công với cách mạng để được hưởng các chế độ đãi ngộ của nhà nước dành cho thân nhân của các đối tượng này, nhưng trẻ em được nhận nuôi vẫn sống ở nhà cha mẹ đẻ, quan hệ cha mẹ và con không được xác lập, thực hiện trên thực tế giữa người nhận nuôi và trẻ em được nhận nuôi… Để khắc phục hiện tượng này, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 và Thông tư số 08/2006/TT-BTP ngày 8/12/2006 đã quy định rõ hơn về điều kiện của trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài. Theo quy định tại các văn bản này, thì trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, trẻ em bị tàn tật, khuyết tật, mất năng lực hành vi dân sự, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ em mắc các bệnh hiểm nghèo khác đang sống tại các cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp hoặc sống tại gia đình. Trong trường hợp trẻ em đang sống tại gia đình mà có quan hệ họ hàng với người xin nhận con nuôi thì chỉ giải quyết cho làm con nuôi của cô, cậu, dì, chú, bác (bên nội hoặc bên ngoại) ở nước ngoài, “nếu trẻ em đó bị mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị mồ côi mẹ hoặc cha, còn người kia không có khả năng lao động và không có điều kiện để nuôi dưỡng trẻ em đó; trường hợp trẻ em còn cha, mẹ nhưng cả cha và mẹ đều không có khả năng lao động và không có điều kiện để nuôi dưỡng trẻ em đó, thì trẻ em cũng được giải quyết cho làm con nuôi. Trong trường hợp trẻ em tuy có quan hệ họ hàng với người xin nhận con nuôi, nhưng trẻ em đó còn cả cha và mẹ, sức khoẻ của trẻ em và của cha mẹ bình thường, cha mẹ vẫn có khả năng lao động và có điều kiện để bảo đảm chăm sóc con mình tại Việt Nam, thì không giải quyết cho làm con nuôi ở nước ngoài”(2). Có thể thấy, quy định như vậy là cần thiết và phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi, tuy nhiên điều kiện đó không chỉ đặt ra trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, mà cần được coi là một điều kiện chung đối với người được nhận nuôi. Pháp luật của các nước như Trung Quốc, Philippin… bên cạnh độ tuổi, đều quy định những điều kiện cụ thể về hoàn cảnh của trẻ em có thể được cho làm con nuôi, chỉ khi đó việc cho trẻ em đó làm con nuôi mới thực sự cần thiết và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em(3). Ví dụ: pháp luật Trung Quốc quy định: trẻ em dưới 14 tuổi bị mồ côi, bị bỏ rơi, trẻ trong gia đình khó khăn không có khả năng nuôi dưỡng có thể được cho làm con nuôi (Điều 4 Luật nuôi con nuôi của nước CHND Trung Hoa ngày 4/11/1998, có hiệu lực từ ngày 1/4/1999).

Do vậy, theo chúng tôi, ngoài quy định về tuổi, pháp luật cần quy định về hoàn cảnh cụ thể của trẻ em được cho làm con nuôi. Trẻ em được cho làm con nuôi là những trẻ em từ 15 tuổi trở xuống có hoàn cảnh sau:

- Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo quy định tại Điều 41 Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004;

- Trẻ em tuy còn cha mẹ nhưng cha mẹ không có khả năng nuôi dưỡng do bị mất năng lực hành vi dân sự, bị bệnh hiểm nghèo, không có khả năng lao động và kinh tế…

- Trẻ em bị cha mẹ đẻ đối xử tàn tệ, bị bỏ mặc hoặc bị cha mẹ hành hạ, ngược đãi, xúc phạm nghiêm trọng đến thân thể, nhân phẩm một cách thường xuyên, có hệ thống, gây nguy hiểm cho trẻ, nếu trẻ vẫn tiếp tục sống cùng cha mẹ đẻ.

2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi

Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi được quy định tại Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình. Các điều kiện đó phần nào thể hiện được những yêu cầu cần phải có của người nhận nuôi con nuôi, song các quy định này chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, cần được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn. Theo chúng tôi, những nội dung cần được sửa đổi, bổ sung về điều kiện của người nhận nuôi con nuôi là:

- Độ tuổi của người nuôi: Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định người nhận nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Theo chúng tôi quy định như vậy là chưa chặt chẽ, chưa phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi. Quan hệ cha mẹ và con trong việc nuôi con nuôi không gắn với quy luật tự nhiên về mặt sinh học, mà nó được hình thành trên cơ sở ý chí, tình cảm của các bên. Để phù hợp với thực chất của quan hệ nuôi con nuôi, để việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và con nuôi có cơ sở, cần quy định độ tuổi tối thiểu của người nhận nuôi con nuôi kết hợp với quy định về khoảng cách tuổi giữa hai bên.

Quy định về độ tuổi tối thiểu của người nhận nuôi phải căn cứ vào bản chất của việc nuôi con nuôi là hình thành quan hệ cha mẹ và con hợp pháp giữa hai bên, do đó tuổi của người nuôi phải tương xứng, phù hợp với tuổi có thể làm cha mẹ về mặt sinh học. Đồng thời, người nhận nuôi phải đạt tới một độ tuổi tối thiểu nhất định thì mới có được kinh nghiệm, hiểu biết, điều kiện kinh tế phù hợp và quan trọng nhất là nhận thức rõ về nhu cầu nhận nuôi con nuôi của mình. Do đó, cần quy định độ tuổi tối thiểu của người nuôi một cách rõ ràng, cụ thể hơn, và có thể quy định độ tuổi đó là từ 25 tuổi trở lên, kết hợp với khoảng cách tuổi tối thiểu giữa người nuôi và con nuôi là 20 tuổi. Pháp luật của các nước, bên cạnh quy định về khoảng cách tuổi tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi, đều quy định độ tuổi tối thiểu của người nhận nuôi con nuôi. Pháp luật ở nước ta trước đây cũng đã quy định về độ tuổi tối thiểu này(4).

Song mặt khác, việc quy định giới hạn tuổi tối đa của cha mẹ nuôi cũng có ý nghĩa không nhỏ. Việc nhận nuôi con nuôi là nhằm đem lại một gia đình cho đứa trẻ, gia đình đó càng giống, càng tương hợp với gia đình tự nhiên của trẻ thì càng tốt, vì vậy “sẽ không hợp với tự nhiên chút nào nếu trẻ ở với các cặp vợ chồng đã quá tuổi sinh nở” (5). Hơn nữa, khi tuổi đã quá cao thì khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi sẽ giảm dần theo tuổi tác và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của trẻ được nhận nuôi. Vì vậy, để phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi và có tính khả thi, pháp luật nên quy định hạn chế tuổi tối đa của người nhận nuôi con nuôi, chẳng hạn người nhận nuôi con nuôi là người không quá 60 tuổi.

- Cần quy định cụ thể các điều kiện thực tế của người nhận nuôi con nuôi là gì để có cơ sở thống nhất khi xem xét công nhận việc nuôi con nuôi. Cần quy định rõ những người mắc các bệnh hiểm nghèo có nguy cơ cao lây nhiễm sang người khác như nhiễm HIV/AIDS, các bệnh viêm gan, lao… có được nhận nuôi con nuôi hay không? Xét về lợi ích lâu dài của trẻ em được nhận nuôi thì theo chúng tôi, pháp luật cần quy định những người mắc các bệnh trên không được nhận nuôi con nuôi để đảm bảo sức khỏe của trẻ em, vì trẻ em không có khả năng để tự bảo vệ mình. Pháp luật của một số nước như Trung Quốc cũng quy định cấm người mắc một số bệnh nguy hiểm không được nhận nuôi con nuôi (Điều 6 Luật nuôi con nuôi của nước CHND Trung Hoa).

- Về tư cách đạo đức của người nhận nuôi con nuôi: Quy định người nhận nuôi con nuôi phải có tư cách đạo đức tốt là một quy định rất chung chung, khó xác định, do đó nên gộp chung với quy định tại khoản 5 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên khoản 5 Điều 69 chưa rõ ràng, còn quy định chung chung giữa nhóm những hành vi phạm tội với những hành vi khác. Sự diễn đạt đó có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau khi áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, để tránh khả năng lạm dụng, bóc lột sức lao động của con nuôi, cần quy định những người đã bị kết án mà chưa được xóa án tích về tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em (Điều 228 BLHS năm 1999) cũng không được nhận nuôi con nuôi. Do đó, theo chúng tôi, quy định này cần sửa lại như sau: Không phải là người có hành vi xúi giục, ép buộc trẻ em làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội; không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; tội ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, người có công nuôi dưỡng mình; tội mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em.

- Đối với người nhận nuôi là người đang có vợ hoặc có chồng: Trong trường hợp người nhận nuôi đang có vợ hoặc có chồng, pháp luật cần có quy định cụ thể về một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, nên quy định người đang có vợ, có chồng được nhận nuôi con nuôi, nếu cả hai người cùng đồng ý nhận nuôi con nuôi chung, mà không nên cho phép người đang có vợ, có chồng nhận nuôi con nuôi riêng, trừ trường hợp nhận con riêng của chính chồng hoặc vợ mình làm con nuôi. Điều này tạo điều kiện hình thành một gia đình trọn vẹn, tự nhiên giống như gia đinh huyết thống của trẻ, để trẻ có môi trường thuận lợi trong quá trình hình thành tình cảm với cha mẹ nuôi, phát triển thể chất và nhân cách. Quy định như vậy còn đảm bảo tính khả thi của điều luật.

Thứ hai, khi cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi thì cả hai người đều phải đáp ứng các điều kiện của việc nuôi con nuôi, trừ trường hợp vợ hoặc chồng nhận con riêng của người kia làm con nuôi thì không bắt buộc phải đủ khoảng cách tuổi tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi (20 tuổi), mà chỉ cần đáp ứng điều kiện đủ tuổi tối thiểu.

3. Sự thể hiện ý chí của các bên có liên quan

Sự thể hiện ý chí của các chủ thể có liên quan trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có ý nghĩa quan trọng. Về vấn đề này, theo chúng tôi cần có sự quy định chặt chẽ, cụ thể hơn ở những khía cạnh sau:

Thứ nhất, cha mẹ đẻ cần thể hiện ý chí rõ ràng về việc cho con làm con nuôi theo hình thức nào, đơn giản hay đầy đủ, tức là cha mẹ đẻ phải xác định rõ việc cho con làm con nuôi có dẫn đến chấm dứt hoàn toàn các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ đẻ và đứa con được cho làm con nuôi hay không. Đây là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định hình thức nuôi con nuôi, hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo pháp luật của nước nhận trong trường hợp trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài. Vì vậy, việc quy định rõ ràng trong pháp luật Việt Nam về các hình thức nuôi con nuôi và hậu quả pháp lý của nó là rất cần thiết.

Thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch: “trong trường hợp một bên cha hoặc mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì chỉ cần chữ ký của người kia; nếu cả cha và mẹ đẻ đều đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì người hoặc tổ chức giám hộ trẻ em ký Giấy thoả thuận” theo chúng tôi là chưa chính xác. Bởi vì trong trường hợp cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc cả hai người bị “hạn chế năng lực hành vi dân sự” theo quy định của Bộ luật Dân sự, thì họ vẫn có quyền và vẫn có khả năng thể hiện ý chí tự nguyện của mình về việc cho con mình làm con nuôi người khác. Đó là quyền nhân thân độc lập của cha mẹ đẻ, không thể chuyển giao cho người khác, nên khi đó, người giám hộ, hoặc người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng không thể ký Giấy thoả thuận thay cha, mẹ đẻ được. Do đó, trong quy định trên cần phải loại bỏ cụm từ “hạn chế năng lực hành vi dân sự” thì mới chính xác.

Thứ ba, sự đồng ý của người giám hộ theo quy định tại Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là chưa chặt chẽ, chưa đảm bảo được lợi ích của trẻ em được giám hộ. Bởi vì, việc cho một đứa trẻ làm con nuôi cần được xem xét, cân nhắc đầy đủ mọi khía cạnh, và phải đảm bảo rằng, “khi bố mẹ không thể hoặc không phù hợp để chăm sóc con thì thân nhân của bố mẹ đứa trẻ hoặc người thay thế khác – gia đình nuôi dưỡng…”(6). Việc đưa trẻ được giám hộ ra khỏi môi trường gia đình ruột thịt của nó chỉ là biện pháp cuối cùng, khi đứa trẻ không thể có được sự chăm sóc, nuôi dưỡng trong gia đình họ hàng mở rộng của nó. Vì vậy, việc cho đứa trẻ đó làm con nuôi cần có ý kiến của những người họ hàng thân thích của trẻ được giám hộ, như ông bà nội, ông bà ngoại, các anh, chị ruột, các cô, chú, bác ruột… Những người này có quyền thể hiện ý chí của mình về việc nhận nuôi dưỡng nó hoặc cho nó làm con nuôi. Khi không có ai trong số những người họ hàng thân thích của trẻ có thể nuôi dưỡng nó hoặc việc nuôi dưỡng trong gia đình họ hàng của trẻ là không có lợi cho nó, thì việc cho nó làm con nuôi là cần thiết. Quy định như vậy còn tạo điều kiện để việc nuôi con nuôi giữa những người họ hàng ruột thịt trở thành hiện thực. Pháp luật của Pháp (Điều 348-2 BLDS Cộng hòa Pháp), của Bỉ(7)… cũng quy định cần có sự đồng ý của Hội đồng gia tộc trong việc cho trẻ làm con nuôi, khi cha mẹ đẻ của nó đều chết, đều mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, cũng cần quy định thêm là, nếu những người họ hàng của đứa trẻ mà lạm quyền không cho trẻ làm con nuôi, thì việc cho trẻ làm con nuôi vẫn có thể được thực hiện vì lợi ích của trẻ (Điều 348-6 BLDS Cộng hòa Pháp).

4.Điều kiện nhận nuôi con nuôi giữa những người có quan hệ họ hàng

Giữa những người có quan hệ họ hàng xác lập quan hệ nuôi con nuôi là một điều kiện thuận lợi cho trẻ em vì nó được tiếp tục sống trong môi trường ruột thịt của mình. Điều này vừa phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của dân tộc, vừa phù hợp với các văn bản pháp lý quốc tế về nuôi con nuôi. Pháp luật Philippin cho phép nhận người có quan hệ họ hàng cùng dòng máu hoặc thân thích từ đời thứ tư làm con nuôi(8), Điều 7 Luật nuôi con nuôi của Trung Quốc cho phép nhận người họ hàng cùng huyết thống nhưng khác chi ở đời thứ ba làm con nuôi(9)… Tuy nhiên, giữa những người có quan hệ họ hàng trong phạm vi nào thì có thể xác lập quan hệ nuôi con nuôi cần được pháp luật quy định rõ. Theo chúng tôi, việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có thể được thiết lập giữa những người có quan hệ bàng hệ với nhau giữa người ở đời trên với người ở đời dưới, tức là ít nhất cách nhau một đời, mà việc xác lập quan hệ cha mẹ – con đó không làm thay đổi thứ bậc giữa họ với nhau trong gia đình. Ví dụ: giữa chú, bác, cô, cậu, dì… với cháu có thể được xác lập quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi. Nhưng giữa những người có quan hệ huyết thống trực hệ thì không thể xác lập quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi. Ví dụ: ông bà ngoại hoặc ông bà nội không thể nhận cháu ruột trực hệ làm con nuôi; người cha đẻ về huyết thống không thể nhận con đẻ ngoài giá thú của chính mình làm con nuôi. Vấn đề này trước đây chưa được quy định trong các văn bản luật hôn nhân và gia đình. Chỉ gần đây, khía cạnh này mới được đề cập đến trong một số văn bản dưới luật, dưới dạng Thông tư(10), nên hiệu lực chưa cao, chưa có tính phổ cập. Vì thế khía cạnh này cần được quy định thống nhất và cụ thể hơn trong Luật về nuôi con nuôi.

5. Thời gian thử thách trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi

Việc nuôi con nuôi nhằm hình thành quan hệ cha mẹ và con hợp pháp, mà không trên cơ sở huyết thống, nên đó là một việc không dễ dàng. Quá trình xác lập việc nuôi con nuôi vừa là sự bắt đầu vừa là sự chấm dứt. Đó là sự bắt đầu quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, và có thể dẫn tới sự chấm dứt quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con. Trong quá trình đó các bên đều phải đối mặt với những biến động, khủng hoảng tâm lý sâu sắc và trải nghiệm những xúc cảm mạnh mẽ. Sự hòa hợp, thích ứng với nhau là một yếu tố căn bản tạo nên sự bền vững, gắn bó trong quan hệ giữa cha mẹ nuôi và đứa trẻ được nhận làm con nuôi. Do những đặc điểm đó của việc cho nhận con nuôi, nên pháp luật của nhiều nước đã quy định về thời gian thử thách trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi và coi đó là một điều kiện để xem xét công nhận việc nuôi con nuôi. Thời gian thử thách là một điều kiện được quy định tại Điều 20 Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi nước ngoài.

Như vậy, thời gian thử thách là khoảng thời gian pháp luật quy định mà trong khoảng thời gian đó, người nhận nuôi sống chung với người được nhận làm con nuôi để cùng thích nghi và xem xét khả năng phù hợp với nhau giữa hai bên, từ đó cơ quan nhà nư­ớc có thẩm quyền quyết định công nhận hay không công nhận việc nuôi con nuôi trên cơ sở bảo đảm lợi ích tốt nhất của ngư­ời được nhận làm con nuôi.

Pháp luật về nuôi con nuôi ở nước ta không quy định về thời gian thử thách giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi trước khi công nhận việc nuôi con nuôi. Pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước có quy định về vấn đề này, như pháp luật Philippin, pháp luật Pháp… Quy định về thời gian thử thách rất cần thiết đối với hình thức nuôi con nuôi đầy đủ, không chỉ trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, mà ở cả trong nước. Theo chúng tôi, nếu quy định, thời gian thử thách có thể là 6 tháng. Chỉ sau khi trải qua thời gian thử thách, cơ quan có thẩm quyền mới có cơ sở để ra quyết định công nhận việc nuôi con nuôi, nếu giữa người nhận nuôi và đứa trẻ thiết lập được mối quan hệ hòa hợp. Nếu hai bên không có sự hòa hợp, không thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp, thì cần đưa đứa trẻ ra khỏi gia đình người nhận nuôi, đồng thời tìm một gia đình khác có mong muốn nhận con nuôi phù hợp hơn với đứa trẻ.

6. Đăng ký việc nuôi con nuôi và vấn đề nuôi con nuôi thực tế

Đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý. Về nguyên tắc, việc nuôi con nuôi không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ không có giá trị pháp lý, các bên không được công nhận có quan hệ cha mẹ và con trước pháp luật.

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện việc nuôi con nuôi ở nước ta đã từng tồn tại việc nuôi con nuôi thực tế. Trong từng giai đoạn lịch sử, việc nuôi con nuôi thực tế đã được pháp luật điều chỉnh và công nhận giá trị pháp lý(11). Qua các văn bản này có thể hiểu: nuôi con nuôi thực tế là việc nuôi con nuôi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật, phù hợp với mục đích nuôi con nuôi, trong đó các bên đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau, việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận nhưng chưa đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền.

Có thể thấy, nếu áp dụng những quy định đã có về nuôi con nuôi thực tế một cách cứng nhắc sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, và không phù hợp với thực tế của quan hệ nuôi con nuôi. Bởi vì, có nhiều trường hợp, quan hệ nuôi con nuôi đã được xác lập trên thực tế, giữa hai bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau, việc nuôi con nuôi đáp ứng đầy đủ các điều kiện, phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi và đã tồn tại trong một thời gian dài, được mọi người công nhận, đến nay con nuôi có thể đã trên 15 tuổi, nhưng nếu các bên có nguyện vọng đăng ký việc nuôi con nuôi thì không có cơ sở pháp lý để giải quyết, vì vậy quyền lợi của các bên không được bảo đảm. Do đó, theo chúng tôi, đối với những trường hợp này, nhà nước cần có biện pháp linh hoạt, mềm dẻo nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các bên. Biện pháp đó có thể là dành cho các đương sự một thời hạn nhất định, có thể là hai năm, để thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Sau thời hạn nhất định đó, nếu các bên không thực hiện việc đăng ký thì không được công nhận có quan hệ nuôi con nuôi. Điều này có thể được điều chỉnh bằng một văn bản riêng biệt, tương tự như cách giải quyết đối với các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực. Khi đó, thời hạn hai năm sẽ được tính kể từ thời điểm văn bản riêng biệt đó có hiệu lực. Theo chúng tôi, khi xây dựng Luật Nuôi con nuôi cần cân nhắc và có quy định cụ thể, hợp tình, hợp lý để giải quyết thỏa đáng những trường hợp nuôi con nuôi thực tế đã tồn tại trong quá khứ, nhằm bảo vệ được quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi.

(1) Điều 9 Công ước quốc tế về quyền trẻ em

(2) Thông tư số 08/2006/TT-BTP, ngày 8/12/2006

(3) Điều 8 Đạo luật về nhận nuôi con nuôi trong nước của Philippin

(4) Điều 183 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật

(5) Nilima Mehta(1998), Cha mẹ đã chọn con, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.36

(6) Điều 4 Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc thu xếp nuôi con nuôi ở trong và ngoài nước

(7) Viện Khoa học pháp lý, Đề tài khoa học cấp Bộ: “Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập Công ước LaHay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế”, Chủ nhiệm: TS. Vũ Đức Long, Hà nội 10/2005, tr. 218.

(8) ) Điều 7 Đạo luật về nhận nuôi con nuôi trong nước năm 1998 của Cộng hòa Philippin

(9) ) Điều 7 Luật nuôi con nuôi của CHND Trung Hoa, được thông qua ngày 4/11/1998, có hiệu lực ngày 1/4/1999

(10) Xem Thông tư số 08/2006/TT-BTP và Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 2/6/2008

(11) Xem Nghị quyết số 01/1988/NQHĐTP- TATC ngày 20/1/1988 và Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002

SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ THÁNG 3 NĂM 2009

CÁM ƠN TÁC GIẢ ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT - TS. NGUYỄN PHƯƠNG LAN – Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội

(MINH KHUE LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

5. Báo cáo ổng kết 5 năm thi hành pháp luật về nuôi con nuôi (2003 -2008)

Thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 của Quốc hội khóa XII, Bộ Tư pháp được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan nghiên cứu, xây dựng dự án Luật nuôi con nuôi (sau đây gọi là dự án Luật).

Để có thêm cơ sở thực tiễn phục vụ việc xây dựng dự án Luật, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 4635/VPCP-QHQT ngày 15/7/2008, trong các ngày 04-05/9/2008 Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, ngành hữu quan tổ chức Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thi hành pháp luật về nuôi con nuôi, nhằm đánh giá, tổng kết các mặt tích cực, thành công, cũng như các khiếm khuyết, bất cập trong việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi. Các đại biểu đã phân tích, đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra nhiều giải pháp để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi, nhằm xử lý những vấn đề xã hội hết sức nhạy cảm phát sinh trong lĩnh vực này.

Để chuẩn bị tiến hành Hội nghị, từ tháng 5 năm 2008, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã có công văn yêu cầu tất cả các địa phương (Sở Tư pháp) chủ động sơ kết tình hình thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi tại địa phương mình, trên cả hai lĩnh vực nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong 5 năm qua, đánh giá về những mặt tích cực, tồn tại, bất cập, tìm ra nguyên nhân để từ đó, kiến nghị các giải pháp khắc phục. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tiến hành sơ kết/tổng kết, rà soát, đánh giá tình hình đăng ký, giải quyết việc nuôi con nuôi từ năm 2003 đến năm 2008 và báo cáo bằng văn bản về Bộ Tư pháp.

Bộ Tư pháp xin báo cáo chung về tình hình thi hành pháp luật về nuôi con nuôi trong 5 năm qua như sau:

A/ NUÔI CON NUÔI TRONG NƯỚC

I. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH RÀ SOÁT, KIỂM TRA VIỆC GIẢI QUYẾT CHO, NHẬN CON NUÔI TRONG NƯỚC

Trong những năm qua, việc giải quyết cho nhận nuôi con nuôi trong nước đã thực hiện tương đối tốt, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Việc thi hành pháp luật về nuôi con nuôi đã góp phần giúp cho nhiều trẻ em có được mái ấm gia đình thay thế ở trong nước, được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt. Đồng thời, thông qua việc giải quyết nuôi con nuôi, cũng góp phần quan trọng bảo đảm cho nhiều người, đặc biệt phụ nữ đơn thân hoặc các cặp vợ chồng hiếm con, được thực hiện quyền làm cha mẹ.

Tuy nhiên, từ thực tiễn thi hành pháp luật về nuôi con nuôi còn cho thấy những tồn tại, bất cập trong lĩnh vực này. Nhiều trường hợp nhận và nuôi dưỡng trẻ em như con nuôi, nhưng không làm thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền do trình độ am hiểu pháp luật của người dân còn thấp, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc đăng ký nuôi con nuôi, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các cháu. Nhiều quy định pháp luật về nuôi con nuôi còn chung chung, chưa cụ thể, thiếu thống nhất; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực này còn yếu, chưa được quan tâm đúng mức nên chưa nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân; cán bộ làm công tác tư pháp – hộ tịch thì chưa đủ về số lượng, chưa mạnh về chất lượng (thường thì ở mỗi xã chỉ có 01 biên chế, song lại chưa được đào tạo về kiến thức pháp luật), trong khi đó công việc của cán bộ hộ tịch – tư pháp phải giải quyết thì khá nhiều.

Do đó, trong việc thi hành pháp luật về nuôi con nuôi, khó tránh khỏi những vi phạm, sai sót. Theo báo cáo của các địa phương cho thấy, những sai sót, vi phạm chủ yếu ở phạm vi nhỏ, mức độ ít nghiêm trọng, chưa gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội và bước đầu Sở Tư pháp đã có các biện pháp xử lý khắc phục (đối với những trường hợp quyết định sai thì cho hủy/thu hồi quyết định nuôi con nuôi; nặng hơn và vi phạm các căn cứ của Luật hôn nhân và gia đình thì đề nghị Tòa án chấm dứt việc nuôi con nuôi; đối với cán bộ vi phạm thì có hình thức xử lý thích hợp). Dưới đây là những kết quả cụ thể.

1. Những kết quả đạt được

Pháp luật về nuôi con nuôi thời gian qua đã tạo cơ sở quan trọng trong việc giải quyết việc cho, nhận nuôi con nuôi trong nhân dân. Ngoài các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, thì Nghị định số 83/1998/NĐ-CP trước đây và hiện nay là Nghị định số 158/2005/ NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch có thể coi là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết việc cho, nhận con nuôi trong nước trong thời gian qua. Để thực hiện tốt công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, cũng như thực hiện tốt công tác nuôi con nuôi trong nước, các Sở Tư pháp đã thực hiện công tác chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ về cho, nhận con nuôi ở cơ sở; các Phòng Tư pháp các huyện, thành phố, thị xã đều được tập huấn nghiệp vụ để từ đó, tập huấn lại cho cán bộ hộ tịch – tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã. Đó là cách làm được hầu hết các tỉnh, thành phố thực hiện. Do đó, việc giải quyết con nuôi trong nhân dân đã từng bước đi vào nền nếp; những sai sót được kịp thời uốn nắn; những khó khăn, bất cập cũng được giải đáp kịp thời để có hướng tháo gỡ.

Theo báo cáo của các Sở Tư pháp, thì việc đăng ký nuôi con nuôi ở cơ sở đã được Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện tương đối đầy đủ, kịp thời. Cán bộ chuyên trách Tư pháp – hộ tịch tận tụy với công việc, bám sát dân, nên đã giúp Ủy ban nhân dân xã thực hiện tốt công tác quản lý, đăng ký cho, nhận nuôi con nuôi trên địa bàn. Việc đăng ký cho, nhận nuôi con nuôi nhìn chung đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, không để sai sót lớn. Thái độ phục vụ nhân dân từng bước đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho người dân về mặt thời gian, trình tự trong giải quyết giao, nhận con nuôi, giải đáp nhiều bức xúc trong nhân dân liên quan đến lĩnh vực này.

Các Sở Tư pháp đã kịp thời hướng dẫn và cung cấp đầy đủ các loại Sổ sách, biểu mẫu hộ tịch theo quy định cho Phòng Tư pháp cấp huyện để cung cấp cho Ủy ban nhân dân cấp xã, phục vụ nhu cầu của người dân khi đăng ký việc cho, nhận nuôi con nuôi. Việc sử dụng mẫu biểu, ghi chép vào sổ đăng ký việc nhận nuôi con nuôi, quản lý hồ sơ cho, nhận nuôi con nuôi được lưu trữ rõ ràng, đầy đủ, chế độ thông tin báo cáo về công tác hộ tịch nhìn chung được thực hiện đảm bảo yêu cầu và đúng quy định pháp luật.

Hầu hết các trường hợp nhận nuôi con nuôi đều xuất phát từ tình cảm và tính nhân đạo. Nhiều địa phương chú trọng đến việc kiểm tra, theo dõi về tình hình phát triển của trẻ em sau khi cho làm con nuôi, thậm chí có địa phương còn hỗ trợ kinh phí cho các cháu bị ốm đau, bệnh tật phải đi bệnh viện.

Báo cáo ngày 10 tháng 8 năm 2009 của Bộ Tư Pháp về tổng kết 5 năm thi hành pháp luật về nuôi con nuôi (2003 -2008)

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162

2. Những tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được như nêu trên, việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong các năm qua cho thấy cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể như sau:

- Theo phản ánh của các địa phương cho thấy, Nghị định 158/2005/NĐ-CP không có quy định về việc trẻ em có cha, mẹ được đưa vào trung tâm nuôi dưỡng, thì phải thông báo tìm người trong nước nhận làm con nuôi. Do đó, để đảm bảo nguyên tắc ưu tiên cho trẻ em đoàn tụ gia đình hoặc làm con nuôi trong nước, cần có văn bản hướng dẫn để các Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em thực hiện việc thông báo tìm người nhận trẻ em làm con nuôi trong nước, trước khi cho làm con nuôi người nước ngoài đối với trường hợp trẻ em còn cha mẹ. Nếu không có quy định như vậy, thì trẻ em không có cơ hội được nhận làm con nuôi trong nước.

- Do các quy định pháp luật về điều kiện cho, nhận nuôi con nuôi chưa cụ thể, rõ ràng, đặc biệt pháp luật không có quy định cấm, nên trong thực tế đã phát sinh những trường hợp người dân lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc ít người… chỉ để hưởng chế độ, chính sách ưu tiên của nhà nước mà không bảo đảm mục đích của việc nuôi con nuôi. Thậm chí có trường hợp cho con đẻ làm con nuôi, để rồi lại sinh con tiếp, vi phạm pháp luật và chính sách về kế hoạch hóa gia đình (sinh con thứ 3, thứ tư…). Trong những vụ việc vi phạm, nổi lên nhất là vi phạm về mục đích nuôi con nuôi.

- Vẫn còn nhiều trường hợp nuôi con nuôi trên thực tế nhưng không đăng ký theo quy định của pháp luật về cho, nhận nuôi con nuôi mà chỉ có sự thỏa thuận của hai bên (bên cho con nuôi và bên nhận con nuôi); còn tồn tại nhiều hình thức nuôi con nuôi có tính chất “dân gian” trong nhân dân (như việc nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, nuôi con nuôi tình nghĩa, con nuôi lập tự…), làm mất đi ý nghĩa, giá trị của việc nuôi con nuôi đích thực, ảnh hưởng đến quyền lợi của con nuôi, bố mẹ nuôi; nhiều trường hợp đến nay con nuôi đã lớn tuổi, không đủ điều kiện để làm thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền.

- Việc mở sổ ghi chép việc đăng ký nuôi con nuôi ở một số xã miền núi, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa còn thiếu hoặc rất sơ sài; nhiều nơi không thực hiện mở sổ và theo dõi việc đăng ký nuôi con nuôi… làm cho công tác quản lý, thống kê hộ tịch gặp nhiều khó khăn.

- Trong quá trình giải quyết việc cho, nhận nuôi con nuôi vẫn còn hiện tượng hồ sơ không đầy đủ; thủ tục không bảo đảm (trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên không ký vào tờ khai); việc lưu trữ hồ sơ cho, nhận con nuôi vẫn còn một vài cấp cơ sở thực hiện không đúng quy định pháp luật, hồ sơ lưu không đầy đủ, hoặc không lưu hồ sơ.

- Trong quá trình giải quyết việc cho nhận nuôi con nuôi ở nhiều địa phương, số trẻ em bị bỏ rơi xảy ra nhiều, có thời điểm số lượng trẻ em bị bỏ rơi tăng đột biến, gây khó khăn cho công tác quản lý và nuôi dưỡng.

- Việc thực hiện thủ tục thông báo tìm người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi, trước khi cho làm con nuôi người nước ngoài, chỉ được tiến hành một cách hình thức, không đáp ứng được nhu cầu thực tế của người muốn nhận trẻ em làm con nuôi; số lượng trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước tại một số tỉnh còn hạn chế, trong khi số trẻ em làm con nuôi người nước ngoài lại nhiều hơn; trẻ em bị bỏ rơi chủ yếu được giới thiệu làm con nuôi người nước ngoài.

- Khó khăn lớn nhất hiện nay trong việc nhận con nuôi trong nước là kiến thức pháp luật về nuôi con nuôi của người dân còn rất hạn chế, nhất là ở vùng núi, nông thôn. Do nhận thức đơn giản, nên việc thực hiện thủ tục đối với trẻ em bị bỏ rơi thường rất sơ xài, đa số trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, người phát hiện không thông báo cho cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em bị bỏ rơi để lập biên bản xác nhận tình trạng bị bỏ rơi của trẻ em. Nhiều trường hợp người dân tự đem trẻ em về nuôi dưỡng mà không làm thủ tục. Do vậy, sau một thời gian dài, khi cha, mẹ nuôi làm thủ tục đăng ký khai sinh cho con, thì hầu như không thực hiện được, vì lúc này việc xác định nguồn gốc và tình trạng trẻ em bị bỏ rơi là hết sức khó khăn và phức tạp. Địa phương nơi trẻ em bị bỏ rơi không xác định được tình trạng trẻ em bị bở rơi để lập biên bản và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng như quy định, nên Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trẻ em hiện đang sinh sống không đủ cơ sở để đăng ký khai sinh, điều này gây khó khăn trong việc giải quyết nuôi con nuôi.

- Khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi: do số lượng hồ sơ giải quyết không nhiều và không quá phức tạp nên theo báo cáo của các địa phương, chủ yếu là vướng mắc trong việc giải quyết nuôi con nuôi đối với trẻ em bị bỏ rơi, vì pháp luật không quy định cụ thể trình tự, thủ tục giải quyết đối với trường hợp này như thế nào. Bên cạnh đó, việc nuôi con nuôi tại cộng đồng diễn ra theo phong tục, tập quán ở các dân tộc cũng khác nhau, chẳng hạn với đồng bào dân tộc Thái ở tỉnh Điện Biên thì ông, bà nội, ngoại có thể nhận cháu nội hoặc cháu ngoại làm con nuôi; anh, chị có thể nhận em cùng bố, mẹ đẻ làm con nuôi v.v… Việc nhận nuôi con nuôi xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như bố mẹ chết hoặc bố, mẹ ly hôn, mẹ đi lấy chồng để lại con cho ông, bà hoặc anh, chị lớn nuôi em và đều được gọi là con. Đối với dân tộc Mông nếu anh hoặc em chết, con của họ sẽ được các anh, em của mình nuôi dưỡng như con.

Có trường hợp anh rể và chị gái nhận em gái (của vợ) làm con nuôi và mang họ của anh rể. Khi nhà trường kiểm tra hồ sơ học sinh mới phát hiện có sự mâu thuẫn giữa giấy khai sinh, hộ khẩu, chứng minh nhân dân, học bạ và yêu cầu gia đình hoàn tất hồ sơ, khi đến cơ quan có thẩm quyền xin thay đổi lại họ cho em gái (con nuôi) theo họ của cha nuôi (anh rể), thì chính quyền cơ sở không giải quyết được đã giới thiệu đến Sở Tư pháp để hướng dẫn, thì lúc này mới phát hiện ra là anh rể nhận em vợ làm con nuôi.

Có trường hợp cha, mẹ nuôi chỉ hơn con nuôi 14 tuổi, lý do là khi đứa trẻ sinh ra ốm yếu quá bố mẹ đã cho người họ hàng nhận làm con nuôi, nhưng không tiến hành làm bất cứ một thủ tục pháp lý nào cả, trong khi đó tất cả các giấy tờ nhân thân của người con nuôi này lại được khai theo họ cha, mẹ nuôi. Do đó, khi lớn lên người con nuôi này vì một lý do nào đó đòi làm lại giấy tờ của mình theo họ của cha, mẹ đẻ, hoặc muốn trở về với cha, mẹ đẻ thì chính quyền cơ sở mới biết những người nuôi dưỡng đứa trẻ từ bé đến nay không phải là cha, mẹ đẻ.

Ngoài ra, giấy tờ của trẻ em bị bỏ rơi cũng không được lập theo đúng quy định. Bản tường trình của người phát hiện và biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thường thiếu thông tin về người phát hiện trẻ, cũng như đặc điểm đồ vật khi phát hiện trẻ em bị bỏ rơi; biên bản bàn giao cho một người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng không đúng quy định; Giấy khai sinh của người được nhận làm con nuôi được đăng ký sau ngày Quyết định cho, nhận con nuôi v.v…

- Việc xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về người nhận con nuôi không đúng quy định pháp luật, mà chỉ xác nhận về nới cư trú của người đó, không đảm bảo yêu cầu của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP.

- Có hiện tượng, do mẹ đẻ và người xin con nuôi đều muốn dấu thông tin cá nhân của mình, nên đã tự thỏa thuận với nhau tại Bệnh viện nên người xin trẻ em mang về địa phương nơi cư trú báo Uỷ ban nhân dân cấp xã lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi không đúng theo quy định của pháp luật.

- Việc quy định tìm cha, mẹ trẻ em trên Đài phát thanh hoặc Truyền hình không quy định cụ thể, nên các địa phương thực hiện không thống nhất (có địa phương thông báo trên trạm truyền thanh cấp huyện hoặc cụm truyền thanh cấp xã và thông báo vào lúc 5 giờ sáng…) nên đã hạn chế cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân.

- Những người đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn muốn cho con, nhưng khi đăng ký thì không thể có mặt tại Uỷ ban nhân dân cấp xã để làm thủ tục, nên việc giải quyết đăng ký cho, nhận con nuôi không thực hiện được.

- Về vấn đề xác định lại dân tộc, theo quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và Thông tư số 01/2008/TT-BTP, thì người xin con nuôi có thể được phép thay đổi họ, tên của trẻ em theo họ, tên của cha mẹ nuôi, nhưng riêng về dân tộc thì không được phép (theo quy định tại Điều 28 Bộ Luật Dân sự 2005). Bất cập ở đây là mặc dù đã có sự thay đổi phần khai về cha, mẹ đẻ. Với những trường hợp cha, mẹ đẻ và cha, mẹ nuôi không cùng dân tộc sẽ dẫn đến dân tộc của người con trong Giấy khai sinh sẽ khác với dân tộc của cha, mẹ. Trong trường hợp này, mục đích của cha, mẹ nuôi được đứng tên với tư cách là cha, mẹ đẻ trong Giấy khai sinh của con nuôi để tránh mặc cảm cho con nuôi đã không đạt được.

- Việc thay đổi phần khai về cha, mẹ (từ cha, mẹ đẻ thành cha, mẹ nuôi trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi). Quy định này khá thông thoáng, nhằm bảo vệ lợi ích của cha, mẹ nuôi cũng như con nuôi. Tuy nhiên, quy định này vẫn còn quá chặt chẽ ở chỗ là phải có sự đồng ý của cha, mẹ đẻ; do đó, trong trường hợp cha, mẹ đẻ không đồng ý, thì Giấy khai sinh của trẻ em vãn phải giữ nguyên tên của cha, mẹ đẻ.

- Công tác kiểm tra, xác minh của các phòng tư pháp cấp huyện ở một số nơi về lĩnh vực nuôi con nuôi đối với tất cả các xã chưa thực sự thường xuyên do thiếu cán bộ.

- Việc xác minh mục đích nhận nuôi con nuôi của cán bộ Tư pháp – hộ tịch trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi đối với một số trường hợp còn thể hiện sự nể nang.

- Chưa có máy tính để phục vụ công việc hàng ngày và lưu trữ dữ liệu, do đó, không chỉ hạn chế công việc mà còn ảnh hưởng đến công tác lưu trữ dữ liệu hồ sơ nuôi con nuôi.

3. Nguyên nhân của những tồn tại

a) Quy định pháp luật chưa bảo đảm khả thi

Nhiều quy định của Nghị định số 158/2005/ NĐ-CP về việc giải quyết cho, nhận nuôi con nuôi trong nước chưa phù hợp với thực tế (quy định về điều kiện cho nhận, thủ tục xác định lại dân tộc cho người con nuôi; thủ tục thông báo đối với trẻ bị bỏ rơi; quy định về thay đổi phần khai của về cha, mẹ đẻ sang cha, mẹ nuôi; không quy định việc đăng ký nuôi con nuôi quá hạn), do đó, trong quá trình giải quyết các trường hợp cụ thể đã gặp phải vướng mắc, ách tắc không giải quyết được. Hơn nữa, Nghị định cũng không quy định chặt chẽ về chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực nuôi con nuôi, dẫn đến việc thực hiện quy định pháp luật vẫn chưa nghiêm.

b) Biên chế, năng lực, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ còn hạn chế

- Biên chế cho cán bộ tư pháp cấp xã chỉ có 01 cán bộ, nhưng 01 cán bộ này lại phải kiêm nhiệm thêm nhiều việc nên thiếu tập trung vào công việc chính được đảm nhiệm. Sự thay đổi biến động trong bố trí cán bộ chuyên trách tư pháp nên ảnh hưởng đến năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ tư pháp – hộ tịch cơ sở.

- Trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ tư pháp – hộ tịch và một số cán bộ lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã trong lĩnh vực nuôi con nuôi còn hạn chế, hơn nữa do tính chất công việc của cấp xã cùng phải kiêm nhiệm nhiều nên thời gian tập trung cho công việc giải quyết việc cho, nhận nuôi con nuôi cũng chưa nhiều.

c) Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật còn hạn chế

- Một số tỉnh miền núi, địa hình đi lại khó khăn, đông dân số, nhiều dân tộc ít người, nhiều đồng bào giáo dân, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch chưa làm được nhiều cho và làm chưa sâu, rộng nên nhận thức của công dân thực hiện các quyền lợi, nghĩa vụ đăng ký việc cho, nhận nuôi con nuôi không đồng đều, đặc biệt việc cho nhận nuôi con nuôi ở các huyện, xã miền núi.

- Thiếu sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan chức năng đối với công tác tuyên tuyên, phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký hộ tịch. Một số ban, ngành, đoàn thể chưa thấy hết trách nhiệm của mình, chưa chủ động trong việc tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích, động viên người dân nên ý thức chấp hành pháp luật và thực hiện các quyền lợi của công dân chưa cao.

Hơn nữa, trình độ dân trí thấp dẫn đến nhận thức của nhân dân, còn nhiều hạn chế, nhất là nhân dân thuộc các dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu, vùng xã, vùng cao và biên giới.

II. KẾT QUẢ KIỂM TRA, RÀ SOÁT TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI TRONG NƯỚC (2003 – 2008)

Tính đến ngày lập báo cáo này, theo báo cáo của 55/64 Sở Tư pháp, tổng số việc nuôi con nuôi trong nước đã giải quyết trong giai đoạn 2003 – 2008 là 15.083 trường hợp, trong đó số vụ việc giải quyết đúng pháp luật là 14.556 trường hợp, số vụ việc vi phạm pháp luật là 328 trường hợp.

STT

Phân loại vi phạm

Tính chất mức độ của từng vi phạm

Ghi chú

Vi phạm khác

Không đăng ký

Trục lợi

Thừa kế

Hưởng CĐCS

Ít nghiêm trọng

Nghiêm trọng

139

13

7

15

154

298

8

4. Tình hình xử lý vi phạm:

STT

Huỷ, thu hồi quyết định công nhận việc nuôi con nuôi

Chấm dứt việc nuôi con nuôi

194

19

5. Kiến nghị giải pháp khắc phục

Dưới đây là bảng tổng hợp những kiến nghị, đề xuất của các địa phương nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập trong lĩnh vực nuôi con nuôi trong nước.

STT

Nội dung

Địa phương đề xuất

1

Sớm ban hành luật nuôi con nuôi với những quy định toàn diện, đầy đủ và thống nhất điều chỉnh các quan hệ nuôi con nuôi trong nước và con nuôi có yếu tố nước ngoài, có tính đến đặc thù của đồng bào miền núi, dân tộc thiểu số; có chế tài rõ ràng cụ thể; tuyên truyền phố biến pháp luật về nuôi con nuôi và hộ tịch sâu rộng để nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp và người dân.

Bắc Ninh, tp HCM, Cà Mau, Đồng Tháp, Hòa Bình, Kiên Giang, Điện Biên, Hải Dương, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đà Nẵng, Bắc Giang, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Sơn La, Thái Nguyên, Lâm Đồng

2

Rà soát lại các văn bản pháp luật hiện hành liên quan tới lĩnh vực đăng ký nuôi con nuôi để đảm bảo tính thống nhất, loại bỏ bớt những quy định không cần thiết trong hồ sơ đăng ký (tường trình của người phát hiện trẻ đã được thể hiện ở biên bản bỏ rơi trẻ em)

Bắc Ninh, Kiên Giang, Đà Nẵng, Bắc Giang

3

Nên bổ sung thêm quy định về giấy thỏa thuận trong hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi đối với trường hợp cha mẹ đã ly hôn, cụ thể là: trong trường hợp cha mẹ đã ly hôn, nếu hai bên không liên lạc được với nhau thì giấy thỏa thuận về việc cho và nhận con nuôi chỉ cần chữ ký của người hiện đang nuôi dưỡng trẻ (quy định như khoản 1 Điều 26 NĐ 158 hiện nay khó thực hiện).

Đối với trường hợp người cho con đang chấp hành hình phạt tù, không thể có mặt tại UBND xã nơi làm thủ tục, nên có quy định linh hoạt cho phép vắng mặt có giấy xác nhận của cơ quan quản lý.

Quảng Trị, Kiên Giang

4

Cần có quy định giải quyết việc đăng ký nuôi con nuôi cho các trường hợp nuôi con nuôi thực tế nhưng chưa đăng ký, đến nay, khi làm thủ tục thì trẻ đã lớn tuổi (trên 15) để bảo đảm quyền lợi của cha mẹ nuôi và con.

Sóc Trăng, Long An, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Hòa Bình, Bình Thuận, Tp Hà Nội, Phú Thọ, Đà Nẵng, Hưng Yên, Thái Nguyên

5

Cần có những tiêu chí cụ thể khi xác định mục đích, tư cách và tính tự nguyện trong việc cho nhận con nuôi để tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tư pháp thực thi nhiệm vụ.

Tiền Giang

6

Cần có quy định cụ thể đối với trường hợp làm con nuôi người già yếu, cô đơn, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự để đảm bảo tính thống nhất trong việc thực hiện. Nên có giới hạn về độ tuổi của con nuôi trong trường hợp này.

Tiền Giang, Long An

7

Nên có quy định về thẩm quyền của cơ quan tư pháp trong việc chấm dứt nuôi con nuôi trong trường hợp có sự đồng thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Theo quy định tại Điều 76 Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay, thẩm quyền này thuộc Tòa án.

Tiền Giang

8

Cần có thêm quy định về điều kiện chấm dứt nuôi con nuôi như: khi cha mẹ nuôi không còn đủ điều kiện kinh tế, cha mẹ nuôi bị tại bạn lao động, suy giảm sức khỏe do bệnh tật…

Bến Tre, Bắc Ninh

9

Để tạo điều kiện thuận lợi cho người được nhận làm con nuôi, cần quy định rõ UBND xã/phường nơi người được nhận nuôi cư trú có trách nhiệm cấp lại giấy khai sinh cho con nuôi sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã tiến hành hủy và thu hồi quyết định công nhận việc nuôi con nuôi.

Bến Tre

10

Cần có quy định và hướng dẫn cụ thể hơn về thủ tục đăng thông báo về tình trạng bỏ rơi của trẻ em. Quy định hiện nay chưa rõ về cấp độ của phương tiện thông báo (đài phát thành truyền hình từ cấp huyện, tỉnh hay có thể đăng trên hệ thống phát thanh xã/phường); quy trình đăng ký thông báo (phải trực tiếp đến đài truyền hình đăng ký hay có thể gửi yêu cầu thông báo qua đường bưu điện); thời điểm được tính trong thời hạn 30 ngày để làm khai sinh cho trẻ em…

Gia Lai, Kiên Giang

11

Cần xem xét và sửa đổi quy định về phần khai dân tộc của trẻ em được nhận làm con nuôi. Nên có quy định cho phép thay đổi dân tộc của trẻ em được nhận làm con nuôi theo dân tộc của cha mẹ nuôi để đảm bảo sự hòa nhập của trẻ trong môi trường gia đình thay thế.

Gia Lai, Bình Định, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Sơn La, Thái Nguyên

12

Cần sửa đổi, bổ sung quy định cho phép được thay đổi phần khai về họ tên cha mẹ đẻ sang cha mẹ nuôi trong giấy khai sinh của trẻ em sau khi làm thủ tục đăng ký nuôi con nuôi. Theo quy định hiện nay, nếu cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không đạt được thỏa thuận thì phần khai về cha mẹ vẫn giữ nguyên của cha mẹ đẻ, như vậy sẽ ảnh hưởng tới sự hòa nhập, tâm lý của trẻ em và cha mẹ nuôi.

Cần có quy định linh hoạt hơn về việc thay đổi họ tên của trẻ em được nhận làm con nuôi mà không cần có sự thỏa thuận của cha mẹ ruột

Gia Lai, Bình Định, Lạng Sơn, Thái Nguyên

Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà Nẵng

13

Cần có quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát, theo dõi tình hình phát triển của trẻ em sau khi được nhận làm con nuôi.

Long An

14

Nên mở rộng thẩm quyền đăng ký nhận nuôi con nuôi cho UBND xã nơi trẻ em được nhận làm con nuôi cư trú (không chỉ trường hợp trẻ bị bỏ rơi)

Bình Định

15

Đề nghị quy định thời hạn giải quyết nuôi con nuôi là 7 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, nếu cần thẩm tra xác minh thêm thì kéo dài tối đa không quá 7 ngày làm việc.

Quảng Bình

16

Bổ sung thêm xác nhận thu nhập của người xin nhận con nuôi trong hồ sơ

Hà Nam

17

Bổ sung biên chế chuyên trách hộ tịch cấp xã

Vĩnh Phúc

18

Cần có quy định cụ thể hơn về việc người Việt Nam nhận trẻ em các nước láng giếng làm con nuôi ở vùng giáp biên

Sơn La

19

Tăng cường biện pháp chế tài và tăng mức xử phạt hành chính đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về nuôi con nuôi

Lâm Đồng, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Tĩnh

B/ VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

I. CÁC MẶT THÀNH CÔNG

Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài (sau đây gọi là Nghị định 68/2002/NĐ-CP) là văn bản pháp luật quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn về cơ chế giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP, bước đầu đã tiệm cận với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần để các cơ quan nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài.

Trên cơ sở báo cáo sơ kết của các địa phương và ý kiến đóng góp tại Hội nghị sơ kết toàn quốc cho thấy việc thực hiện Nghị định 68/2002/NĐ-CP trong thời gian qua đã có những mặt thành công sau:

1. Tạo ra cơ chế xử lý vấn đề nuôi con nuôi quốc tế minh bạch hơn so với thời kỳ trước đây

Nghị định 68/2002/NĐ-CP có bước phát triển quan trọng so với Nghị định 184/CP ngày 30/11/1994 trong việc cải cách cơ chế, quy trình, thủ tục, hồ sơ giấy tờ giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài theo hướng minh bạch hơn, rõ ràng và cụ thể hơn, cũng như tiệm cận dần với cơ chế quốc tế, bước đầu đáp ứng những nguyên tắc cơ bản của Công ước Lahay. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, Nghị định 68/2002/NĐ-CP đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài, theo đó chỉ giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở những nước ký kết với Việt Nam điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi. Như vậy, cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết vấn đề nuôi con nuôi quốc tế là điều ước quốc tế giữa Việt Nam và nước ngoài hữu quan. Đối với những nước chưa ký kết điều ước quốc tế, chỉ giải quyết trong một số trường hợp ngoại lệ có tính nhân đạo, theo pháp luật Việt nam. Việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài trên cơ sở các Hiệp định song phương, có thể coi như một bước tập dượt cần thiết trong tiến trình tham gia Công ước Lahay về nuôi con nuôi.

Thứ hai, Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định trách nhiệm theo dõi, quản lý vấn đề con nuôi quốc tế cho một cơ quan đầu mối là Cơ quan con nuôi quốc tế của Bộ Tư pháp (tức là Cục Con nuôi). Cơ quan này đồng thời đảm nhiệm chức năng của Cơ quan Trung ương về con nuôi quốc tế theo các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước. Với sự thành lập cơ quan này và gắn với trách nhiệm thẩm tra hồ sơ của người xin nhận con nuôi, đã bước đầu thực hiện trung ương hóa về thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài mà trước đây, theo Nghị định 184/CP, tất cả các khâu đều giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (Sở Tư pháp) giải quyết.

Thứ ba, đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi người nước ngoài cũng được quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn và chặt chẽ hơn trước đây (chủ yếu bao gồm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp). Với sự kiểm tra chặt chẽ của các cơ quan có thẩm quyền của địa phương và trung ương đối với hồ sơ của trẻ em, đã dần dần tạo ra sự minh bạch hơn về nguồn gốc của trẻ em. Điều này góp phần hạn chế một cách đáng kể các hành vi làm sai lệch hồ sơ về nguồn gốc của trẻ em để cho làm con nuôi người nước ngoài, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền của trẻ em. Các thông tin về trẻ em được theo dõi, quản lý khá thống nhất từ địa phương đến trung ương.

Thứ tư, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương với nhau và với cơ quan trung ương đã được kiện toàn một bước. Nhiều tỉnh đã ban hành Quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan Tư pháp, Lao động – Thương binh và Xã hội, Công an, Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi quốc tế, tạo ra sự kiểm tra thường xuyên hơn đối với hoạt động nuôi con nuôi quốc tế tại địa phương, có ý nghĩa tích cực trong việc phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật nhằm mục đích trục lợi.

Đồng thời, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan địa phương và trung ương (thông qua đầu mối là Cục Con nuôi) đã thúc đẩy công tác quản lý và điều hành thống nhất giữa trung ương và địa phương, nhằm tháo gỡ kịp thời các vướng mắc trong khâu quản lý, đảm bảo yêu cầu đối ngoại.

Thứ năm, công tác xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật hướng dẫn giải quyết việc nuôi con nuôi quốc tế đã được Bộ Tư pháp và các Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đặc biệt quan tâm. Để hướng dẫn thi hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP, ngày 16 tháng 12 năm 2002 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 07/2002/TT-BTP và ngày 08/12/2006 ban hành Thông tư 08/2006/TT-BTP hướng dẫn thực hiện các quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật này, khi phát sinh những vấn đề bất cập, Bộ Tư pháp đều phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan và chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kịp thời xử lý, bảo đảm chặt chẽ và phúc đáp yêu cầu của thực tiễn đặt ra.

Thứ sáu, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với các cơ quan/tổ chức nước ngoài trong quá trình thực hiện Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi cũng được cải tiến đáng kể, đặc biệt là với các Đại sứ quán, lãnh sự quán và cơ quan quản lý nhập cư của các nước, đã tạo điều kiện để nước ta thực hiện được đầy đủ các cam kết theo Hiệp định. Định kỳ hàng năm hoặc 2 năm Nhóm hỗn hợp gồm chuyên gia của nước ta và các nước ký kết Hiệp định nhóm họp để kiểm điểm tình hình thực hiện Hiệp định, cùng nhau bàn bạc để tháo gỡ các khó khăn và vướng mắc, nhằm đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các Hiệp định, tăng cường hợp tác nuôi con nuôi với các nước.

Như vậy, có thể nói rằng Nghị định 68/2002/NĐ-CP (và Nghị định 69/2006/NĐ-CP) đã tạo ra một cơ chế với nhiều điểm mới so với Nghị định 184/CP trước đây, tạo thuận lợi hơn cho việc giải quyết vấn đề con nuôi quốc tế. Đây chính là bước chuyển tiếp quan trọng để chuẩn bị cho việc áp dụng cơ chế xử lý vấn đề nuôi con nuôi quốc tế theo Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế mà nước ta đang chuẩn bị tham gia. Chính cơ chế này đã cho phép tạo ra quy trình, thủ tục minh bạch hơn trong việc xử lý vấn đề nuôi con nuôi quốc tế.

2. Tìm được mái ấm gia đình thay thế cho nhiều trẻ em

Do đối tượng trẻ đủ điều kiện cho làm con nuôi và thủ tục, trình tự giải quyết được quy định cụ thể, rõ ràng hơn trong Nghị định 68/2002/NĐ-CP, nên tính đến thời điểm lập báomcáo này, trong hơn 05 năm qua đã trên 6.000 trẻ em tìm được mái ấm gia đình thay thế, theo cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa Việt Nam và nước nhận thông qua các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi đã được ký kết.

Việc tìm mái ấm gia đình cho các trẻ em nêu trên cũng là đem lại tiếng cười và niềm hạnh phúc cho nhiều gia đình cha mẹ nuôi, trong đó có một số lượng đáng kể các gia đình người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đây là việc làm nhân đạo để tăng cường hơn nữa sự hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước, thiết lập nên mối quan hệ thân thiện với các dân tộc trên thế giới và góp phần quan trọng thực hiện chính sách của Đảng về đại đoàn kết dân tộc đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Qua các báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ở nước ngoài và kết quả khảo sát nhiều nước nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, trực tiếp thăm hàng trăm gia đình và gặp mặt hàng ngàn trẻ em cùng gia đình cha mẹ nuôi ở các nước khác nhau, đều thấy rằng con nuôi Việt Nam hội nhập nhanh với môi trường nước nhận, được chăm sóc chu đáo.Ở nhiều nơi con nuôi Việt Nam đứng đầu lớp về học lực; nhiều em phát triển được tài năng trong lĩnh vực âm nhạc, thể dục, thể thao, văn hoá, văn nghệ, tin học. Các gia đình cha mẹ nuôi rất tự hào về con nuôi Việt Nam và họ luôn ý thức hướng cho trẻ em tìm hiểu về cội nguồn quê hương đất nước, nơi trẻ em sinh ra. Tại nhiều nước đã lập ra các Hội con nuôi Việt Nam và lớp dạy tiếng Việt cho trẻ em. Nhiều cháu nói được tiếng Việt và có sự hiểu biết về quê hương đất tổ. Nhiều gia đình đã đưa con nuôi về Việt Nam thăm lại cơ sở nuôi dưỡng nơi trẻ em đã được chăm sóc, thăm các danh lam thắng cảnh của Việt Nam. Nhiều gia đình đã lưu giữ ảnh, kỷ vật và đồ lưu niệm từ Việt Nam để qua đó, giúp cho trẻ em có ý thức về nguồn gốc của mình. Đồng thời, thông qua hiệp hội nuôi con nuôi và các gia đình xin con nuôi Việt Nam, nhiều gia đình nước ngoài khác cũng muốn đến Việt Nam để xin con nuôi, vì họ cho rằng thủ tục giải quyết nuôi con nuôi ở Việt Nam không mất nhiều thời gian như ở nhiều nước hiện nay; các cơ quan nhà nước đều bảo đảm sự thuận lợi, an toàn và họ rất có thiện cảm với trẻ em Việt Nam.

Cùng với đó, thời gian qua cũng có nhiều trẻ em khuyết tật, tàn tật, bị bệnh hiểm nghèo, được các tổ chức con nuôi đưa ra nước ngoài chữa trị và sau đó được giải quyết cho làm con nuôi (thông qua thủ tục tại Đại sứ quán Việt Nam tại nước sở tại). Điều đó không những đã góp phần giảm bớt chi phí, thời gian cho đương sự, mà còn thể hiện sự cải cách đáng kể các thủ tục hành chính trong lĩnh vực này.

3. Cải thiện đời sống của trẻ em tại nhiều cơ sở nuôi dưỡng

Một trong những mặt thành công của Nghị định 68/2002/NĐ-CP là đã xoá bỏ cơ chế cha mẹ nuôi trực tiếp hỗ trợ nhân đạo cho cơ sở nuôi dưỡng (theo Nghị định 184/CP trước đây), tạo ra cơ chế mới về hỗ trợ của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ sở nuôi dưỡng thông qua dự án nhân đạo. Theo thông báo của các địa phương, hiện cả nước có 91/378 cơ sở nuôi dưỡng có quyền cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Đây là những cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp, chủ yếu do Sở Lao động Thương binh và Xã hội (cấp tỉnh) quản lý, là nơi tiếp nhận các dự án hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài. Chỉ có một số ít các cơ sở nuôi dưỡng là Sở Y tế hoặc Phòng Lao động thương binh và xã hội (cấp huyện) quản lý.

Qua báo cáo của các địa phương và các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam cho thấy, việc thực hiện các dự án hỗ trợ nhân đạo từ hoạt động hợp tác nuôi con nuôi quốc tế đã tạo điều kiện cho nhiều cơ sở nuôi dưỡng, sau một thời gian đã trở nên khang trang hơn; điều kiện chăm sóc trẻ em tốt hơn do nhận được nguồn hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại địa bàn. Mức hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em nhiều nơi đạt khoảng 1 triệu đồng/1 trẻ/tháng. Nhiều cơ sở nuôi dưỡng có hệ thống cung cấp nước sạch, trẻ được ăn uống đầy đủ hơn, có các tiện nghi cần thiết để chăm sóc trẻ sơ sinh. Số lượng các cháu bị bệnh hay bị chết do điều kiện vệ sinh không tốt hay bệnh tật ở các cơ sở nuôi dưỡng này đã giảm hẳn.

Nhiều địa phương quản lý tương đối chặt chẽ các khoản hỗ trợ nhân đạo, công khai các khoản thu, khoản chi, hàng năm các khoản hỗ trợ nhân đạo đều được kiểm toán. Kết quả các đợt kiểm tra, kiểm toán được thông báo cho Cục Con nuôi. Đa số các khoản hỗ trợ nhân đạo được chi đúng đối tượng, tuân thủ các quy định của pháp luật về tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ phi chính phủ.

Ngoài ra, nhiều trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng và ngoài cộng đồng còn được khám chữa bệnh miễn phí do có sự hỗ trợ từ các tổ chức con nuôi và các tổ chức nhân đạo nước ngoài khác, được cung cấp thuốc chữa bệnh. Nhiều trẻ tàn tật được cung cấp xe lăn, các dụng cụ thiết yếu cho trẻ tàn tật, trẻ bị bệnh tim được can thiệp kịp thời, chăm sóc tốt.

Theo báo cáo chưa đầy đủ, từ 2003 – 6/2008, tổng số 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài đã hỗ trợ nhân đạo (bằng tiền và vật chất) cho gần 100 cơ sở nuôi dưỡng khoảng 160 tỷ đồng, trong đó riêng năm 2007 đạt gần 60 tỷ đồng. Các Văn phòng con nuôi nước ngoài hỗ trợ nhiều, gồm có: Dillon International (Hoa Kỳ): 10,2 tỷ đồng; AC (Thuỵ điển): 9,8 tỷ đồng; Destinees (Pháp): 9 tỷ đồng; AC (Đan Mạch): 8,9 tỷ đồng; CHI (Hoa Kỳ): 8,2 tỷ đồng; TDH (Canada): 8,1 tỷ đồng; Comexseo (Pháp): 8 tỷ đồng; NAAA (Italia): 7,93 tỷ đồng; ODA Marseille (Pháp): 7,8 tỷ đồng; Holt International (Hoa Kỳ): 7,4 tỷ đồng; WCI (Hoa Kỳ): 6,2 tỷ đồng; VORF (Hoa Kỳ): 6 tỷ đồng; Danadopt (Đan Mạch): 5,32 tỷ đồng); PLAN (Hoa Kỳ): 5 tỷ đồng; PSBI (Hoa Kỳ): 4,5 tỷ đồng; CB (Canada): 4,4 tỷ đồng; CAA (Hoa Kỳ): 3,9 tỷ đồng; Helping Hand (Ailen): 3,7 tỷ đồng; IAAP (Hoa Kỳ): 3,1tỷ đồng; Faith International (Hoa Kỳ): 3 tỷ đồng.

4. Cải tiến một bước trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài

Theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP, thì thủ tục trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi quốc tế được cải tiến một bước đáng kể so với Nghị định 184/CP trước đây. Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi quốc tế được rút từ 6 tháng trước đây xuống còn 4 tháng; thời gian xử lý ở từng khâu của các cơ quan liên quan được quy định rõ ràng, hợp lý hơn, ngắn hơn; các giấy tờ được thiết kế theo mẫu dễ dàng cho việc thực hiện.

Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước (Cục Con nuôi, Sở Tư pháp, Công an tỉnh, Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Cơ sở nuôi dưỡng) được quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn ở từng khâu liên quan trong toàn bộ quá trình xử lý hồ sơ của người xin con nuôi và hồ sơ của trẻ em.

Về phía Cục Con nuôi, thời hạn giải quyết hồ sơ đã được tuân thủ khá tốt, thậm chí còn được rút ngắn hơn so với luật định. Cục đã phân công, theo dõi và đôn đốc việc thực hiện của các chuyên viên trong Cục, đồng thời cũng đôn đốc các cơ quan hữu quan khác ở trung ương và địa phương đảm bảo thời hạn giải quyết. Các giấy tờ trong hồ sơ của người xin con nuôi được kiểm tra, xem xét kỹ theo quy định pháp luật của nước nhận và Hiệp định. Các giấy tờ trong hồ sơ của trẻ em cũng được kiểm tra trên cơ sở quy định của pháp luật Việt Nam. Bất kỳ một nghi vấn nào trong hồ sơ đều được xem xét và yêu cầu địa phương giải trình.

Ở địa phương tuỵêt đại đa số các Sở Tư pháp đã có bộ phận chuyên trách xử lý về hồ sơ con nuôi quốc tế (thuộc Phòng Hộ tịch do Giám đốc Sở hoặc Phó Giám đốc Sở trực tiếp phụ trách); cán bộ tư pháp và cơ sở nuôi dưỡng trẻ em tại địa phương hàng năm đều được Cục Con nuôi tập huấn về nghiệp vụ.

Việc cấp hộ chiếu cho trẻ em xuất cảnh Việt Nam đã được cải tiến một bước. Nếu trước đây nhiều địa phương giải quyết việc cấp hộ chiếu trong thời hạn 20 ngày, thì gần đây rút xuống còn 05 ngày. Cục Con nuôi đã phối hợp chặt chẽ với A.18 Bộ Công an để hướng dẫn cho đương sự về thủ tục xin cấp hộ chiếu cho trẻ em sau khi được giải quyết cho làm con nuôi, đảm bảo rút ngắn thời hạn cấp hộ chiếu để tạo thuận lợi cho trẻ em xuất cảnh. Kể cả việc cấp thị thực “nóng” tại cửa khẩu cho một số cha mẹ nuôi người nước ngoài vì lý do đột xuất cũng đã được quan tâm hơn.

Thời hạn cha mẹ nuôi đến Việt Nam để làm lễ giao nhận con nuôi và làm các thủ tục khác để đưa con nuôi về nước cũng được rút ngắn đáng kể (khoảng trên dưới 03 tuần), phù hợp với thời gian nghỉ phép của họ. Đây là điều kiện thuận lợi để cha mẹ nuôi có thể thu xếp công việc đến Việt Nam mà không ảnh hưởng lớn đến công việc làm ăn ở nước ngoài.

5. Công tác kiểm tra, thanh tra được tăng cường một bước

Công tác kiểm tra, thanh tra là công tác được đặc biệt quan tâm kể từ khi thực hiện Nghị định 68/2002/NĐ-CP. Công tác này đã góp phần uốn nắn kịp thời những lệch lạc, xử lý các vi phạm, nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần trách nhiệm của những người hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.

Hàng năm, Bộ Tư pháp đều phối hợp cùng các cơ quan khác ở trung ương như Bộ Công an, Lao động – Thương binh và Xã hội tiến hành kiểm tra tình hình nuôi con nuôi quốc tế ở các địa phương. Ngoài ra, các cuộc kiểm tra đột xuất cũng được Cục Con nuôi tiến hành khi phát hiện có những vấn đề phức tạp phát sinh. Nội dung các cuộc kiểm tra khá toàn diện, đặc biệt về việc xác minh nguồn gốc trẻ em; việc bảo đảm các thủ tục, hồ sơ, giấy tờ (nhất là những giấy tờ liên quan đến việc tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng); việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng yêu cầu các địa phương hàng năm tự tiến hành kiểm tra, xác minh làm rõ các vướng mắc, bất cập, vi phạm để báo cáo về Bộ xử lý.

Hàng năm, Bộ Tư pháp có kế hoạch kiểm tra định kỳ các Văn phòng con nuôi nước ngoài trên phạm vi cả nước để kịp thời phát hiện và uốn nắn các lệch lạc, qua đó thấy được những khó khăn, vướng mắc của các Văn phòng con nuôi nước ngoài để có giải pháp tháo gỡ. Ngoài ra, các tỉnh cũng đều có kế hoạch tổ chức kiểm tra định kỳ hoạt động của các cơ sở nuôi dưỡng và hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài trên phạm vi địa bàn tỉnh. Kết quả kiểm tra được thông báo cho Bộ Tư pháp. Thanh tra Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành thanh tra định kỳ và đột xuất một số địa phương, nhất là những nơi có dấu hiệu vi phạm hoặc thực hiện chưa tốt pháp luật về nuôi con nuôi quốc tế.

Hoạt động kiểm tra, thanh tra đã góp phần đáng kể trong công tác quản lý, nhất là việc xử lý, ngăn ngừa các vi phạm trong lĩnh vực giải quyết các vụ việc về nuôi con nuôi quốc tế trong thời gian qua.

6. Hoạt động hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi được mở rộng

Một trong những thay đổi quan trọng của Nghị định 68/2002/NĐ-CP là yêu cầu hoạt động nuôi con nuôi quốc tế được tiến hành trên cơ sở điều ước quốc tế về h��p tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam và các nước. Nghị định 184/CP trước đây không có yêu cầu này. Cùng với việc mở rộng ký kết, thực hiện các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi, công tác hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi được Bộ Tư pháp đặc biệt quan tâm. Hoạt động hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế được xác định là hoạt động có tính chất nhạy cảm, do đó, cần bảo đảm phù hợp với đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực này. Trong các hoạt động đối ngoại, các bên luôn tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau, tuân thủ các nguyên tắc đối ngoại nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Với tư cách là Cơ quan trung ương theo các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế, Cục Con nuôi – Bộ Tư pháp thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động với Cơ quan trung ương về con nuôi quốc tế của các nước ký kết và các nước hữu quan khác, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để triển khai thực hiện tốt các quy định của Hiệp định và xử lý các vụ việc liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

Việc trao đổi với các Đại sứ quán, Lãnh sự quán tại Việt Nam của các nước ký kết Hiệp định về các vấn đề nuôi con nuôi cũng được duy trì thường xuyên, kịp thời phối hợp xử lý các vấn đề tác nghiệp liên quan đến hồ sơ nuôi con nuôi và các thủ tục, trình tự liên quan đến việc giải quyết nuôi con nuôi. Trong thời gian qua, Cục Con nuôi – Bộ Tư pháp đã tổ chức 3 cuộc đối thoại trực tiếp tại Hà Nội với các nhân viên lãnh sự của các nước ký kết để trao đổi về các vấn đề mà phía nước ngoài đặt ra nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.

II. NHỮNG TỒN TẠI, BẤT CẬP

Bên cạnh những thành công như nêu trên, Hội nghị cũng nhận thấy việc thực hiện các quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP trong vòng 05 năm qua cho thấy còn có một số tồn tại, bất cập cần tháo gỡ, nhằm đảm bảo cơ chế nuôi con nuôi quốc tế chặt chẽ hơn và minh bạch hơn như sau:

1. Nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi

Mặc dù việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài đã tiến hành gần hai chục năm nay, song trong một số cơ quan nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa phương còn có sự nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi quốc tế nói riêng; thậm chí còn mơ hồ về tính nhân đạo, nhân văn của lĩnh vực con nuôi quốc tế, cũng như về các vấn đề pháp lý có liên quan.

Nuôi con nuôi quốc tế là vấn đề nhạy cảm, hệ trọng liên quan đến số phận của những trẻ em có hoàn cảnh thiệt thòi phải sống xa quê hương, đất nước nơi mình sinh ra, hậu quả của nó còn kéo dài hàng chục năm sau đó. Vì vậy, trên phương diện pháp luật, Nhà nước phải xử lý hàng loạt các vấn đề liên quan đến con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, những người và tổ chức có liên quan khác và trong đó, quan trọng hơn cả là liên quan đến quyền và lợi ích của trẻ em.

Một quyết định không được cân nhắc kỹ lưỡng, thiếu chính xác, một hành vi thiếu tính nhân đạo hoặc trục lợi sẽ gây hậu quả khôn lường không những đối với trẻ em, người xin con nuôi, tổ chức con nuôi mà thậm chí đến quan hệ giữa nước cho con nuôi và nước nhận con nuôi. Một nhận thức không đúng về vấn đề nuôi con nuôi có thể dẫn đến việc một cá nhân có thể góp phần làm sai lệch giấy tờ về nguồn gốc của trẻ, một công chức nhà nước hoặc một cán bộ có chức quyền ở địa phương có thể tiếp tay cho những hành vi trục lợi liên quan đến việc đạo diễn cho trẻ em làm con nuôi, xâm hại đến các quyền và lợi ích cơ bản của trẻ em, gây ra hậu quả khôn lường cho xã hội.

2. Làm sai lệch nguồn gốc trẻ em

Thực tiễn thi hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP cho thấy hiện tượng một số địa phương đã làm sai lệch nguồn gốc của trẻ em để cho làm con nuôi. Việc làm sai lệch nguồn gốc trẻ em, đã làm ảnh hưởng đến tính trung thực, minh bạch trong hồ sơ giấy tờ và có thể dẫn đến sự vi phạm các quyền của trẻ em, nhất là trẻ sơ sinh. Qua vụ án đã được khởi tố tại Nam Định và một số địa phương khác thời gian gần đây đã cho thấy tính phức tạp trong việc kiểm soát các giấy tờ liên quan đến nguồn gốc đích thực của trẻ em. Nguyên nhân là do sự buông lỏng quản lý ở các cơ sở nuôi dưỡng, chạy theo lợi ích vật chất kinh tế trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, thậm chí có sự cấu kết giữa cơ sở nuôi dưỡng và những kẻ môi giới bất hợp pháp bên ngoài để đưa trẻ em từ các nơi khác về cơ sở nuôi dưỡng và hợp thức hoá bằng hồ sơ trẻ em bị bỏ rơi để cho làm con nuôi người nước ngoài.

Các cơ quan có thẩm quyền của địa phương, nhất là chính quyền cấp xã, cần tăng cường kiểm tra, thực hiện đúng các quy định về việc xác định nguồn gốc của trẻ em, nhất là trẻ bị bỏ rơi, chống mọi biểu hiện làm sai lệch nguồn gốc trẻ em, ngăn ngừa sự cấu kết, tiếp tay với những người môi giới bất hợp pháp để đưa trẻ em có nguồn gốc không rõ ràng vào cơ sở nuôi dưỡng để cho làm con nuôi người nước ngoài.

Mặc dù Điều 32 của Nghị định 76/2006/NNĐ-CP ngày 02/8/2006 có quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (như hành vi vi phạm của cá nhân trong việc khai báo gian dối để đăng ký việc cho, nhận con nuôi; tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, lợi dụng giới thiệu trẻ em làm con nuôi nhằm mục đích vụ lợi, làm dịch vụ môi giới cho hoặc nhận con nuôi trái pháp luật), song các quy định này lại ít đi vào đời sống và không khả thi. Bởi trên thực tế, mức phạt chưa đủ mạnh để răn đe, nên các sai sót về hồ sơ giấy tờ chỉ được các cơ quan chuyên môn nhắc nhở và chưa xử phạt một trường hợp vi phạm nào. Nhìn chung, thủ tục phát hiện, xem xét để xử lý các vi phạm hành chính về lập hồ sơ cho trẻ em, làm giả giấy tờ, tài liệu nhằm mục đích trục lợi còn chưa có tính khả thi.

3. Chưa bảo đảm ưu tiên việc nuôi con nuôi trong nước trước khi cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài

Một trong những hạn chế của pháp luật về hôn nhân gia đình nước ta nói chung và Nghị định 68/2002/NĐ-CP nói riêng là còn thiếu các quy định đảm bảo sự gắn kết giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế theo hướng ưu tiên nuôi con nuôi trong nước; nuôi con nuôi nước ngoài chỉ được coi là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước. Đây là một yêu cầu quan trọng của Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế mà Việt Nam đang chuẩn bị ký. Nhưng hiện nay yêu cầu này chưa được bảo đảm thực thi nghiêm túc ở nước ta, do còn thiếu các biện pháp kiên quyết và hữu hiệu.

Theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP, trước khi giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài, cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm thông báo 30 ngày trên phương tiện thông tin đại chúng cấp tỉnh (trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình) về việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Nhưng trên thực tế, nhiều nơi chỉ làm một cách hình thức, chiếu lệ, không bảo đảm đích thực của việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Thậm chí có nơi chỉ nộp giấy xác nhận đã thông báo trên đài phát thanh hoặc trên vô tuyến truyền hình, còn thực tế có thông báo hay không, lại không có sự kiểm tra.

Ngoài ra, Nghị định 69/2006/NĐ-CP (sửa đổi Nghị định 68/2002/NĐ-CP) cũng không quy định phải thông báo tìm mái ấm gia đình cho trẻ em mồ côi, trẻ em được cha mẹ đưa vào cơ sở nuôi dưỡng, do đó, chưa tạo ra sự thống nhất về việc tìm mái ấm gia đình cho trẻ em nói chung, trước khi giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài.

Như vậy, có thể nói, bản thân pháp luật hiện hành của nước ta về lĩnh vực này cũng chưa có các quy định nhằm bảo đảm ưu tiên việc nuôi con nuôi trong nước đối với trẻ em, cho nên các cơ quan nhà nước, các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em cũng chưa thực sự quan tâm đến việc này, mà chỉ chú ý vào việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Tâm lý “hướng ngoại” ấy phần nào còn bị ảnh hưởng bởi những lợi ích vật chất/kinh tế trong việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài mà chưa chú ý đến việc thu xếp mái ấm gia đình cho trẻ em ở trong nước.

4. Chưa quản lý chặt chẽ các hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam

Thời gian qua trên phạm vi cả nước có 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động, trong đó 42 văn phòng của Hoa Kỳ. Do pháp luật các nước quy định khác nhau về quyền và nghĩa vụ của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là về nguyên tắc hoạt động (phi lợi nhuận hay lợi nhuận), nên các tổ chức con nuôi nước ngoài đến Việt Nam hoạt động cũng với các phương thức khác nhau, mặc dù tất cả các tổ chức này chỉ được hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận tại Việt Nam theo giấy phép của Bộ Tư pháp cấp.

Các nước ký kết Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với nước ta, trừ Hoa Kỳ, đều có Cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế. Việc cho phép tổ chức con nuôi vào Việt Nam hoạt động là do Cơ quan trung ương nước ngoài hữu quan cấp phép. Trong khi đó, ở Hoa Kỳ các tổ chức con nuôi Hoa Kỳ là do chính quyền các bang cấp phép và quản lý (Hoa Kỳ có khoảng 3.000 tổ chức con nuôi). Nhiều tổ chức con nuôi sang Việt Nam mang tính tự phát, không có sự kiểm soát và giới thiệu của một cơ quan trung ương ở cấp liên bang. Các tổ chức con nuôi Hoa Kỳ do chính quyền bang cấp phép và quản lý theo pháp luật của từng bang. Pháp luật về nuôi con nuôi, trình tự cấp phép và quản lý tổ chức nuôi con nuôi của các bang lại rất khác nhau. Điều này gây không ít khó khăn cho các cơ quan của nước ta trong việc đánh giá, xem xét cấp phép và quản lý. Khi các tổ chức Hoa Kỳ vào đã quá nhiều (42) buộc phía Việt Nam phải tạm ngưng (còn rất nhiều tổ chức muốn vào hoạt động tại Việt Nam). Việc số đông các tổ chức con nuôi vào Việt Nam hoạt động đã tạo ra sự cạnh tranh với các tổ chức con nuôi của các nước khác và làm cho tình hình giải quyết việc nuôi con nuôi ngày càng trở nên phức tạp hơn, khó kiểm soát.

Văn phòng con nuôi của các nước hoạt động tại Việt Nam một mặt phải tuân theo pháp luật Việt Nam, mặt khác phải tuân theo pháp luật của nước nhận. Nhiều nước có các quy định rất khác nhau về hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là các quy định về tài chính. Nhiều tổ chức lại có khả năng tài chính mạnh, cơ chế xử lý tài chính mềm dẻo liên quan đến việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế. Trong nhiều trường hợp họ dùng tiền mặt để hỗ trợ cơ sở nuôi dưỡng. Trong khi đó các quy định của pháp luật nước ta về hỗ trợ nhân đạo, quản lý việc tiếp nhận, sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo còn thiếu và chưa cụ thể, chưa rõ ràng; không có quy định về việc cấm sử dụng tiền mặt; kỷ luật tài chính nói chung còn chưa chặt chẽ. Đây chính là những sơ hở, thiếu sót về mặt pháp lý, nên chưa bảo đảm được sự minh bạch, công khai và sử dụng đúng mục đích các khoản hỗ trợ nhân đạo.

Trong thực tiễn cả tổ chức con nuôi nước ngoài và các cơ sở nuôi dưỡng đều chưa thực hiện báo cáo đầy đủ và đúng về các khoản hỗ trợ nhân đạo cho Bộ Tư pháp. Thậm chí các báo cáo của phía tổ chức con nuôi nước ngoài và phía địa phương Việt Nam rất khác nhau. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho việc quản lý, thống kê, theo dõi các khoản hỗ trợ nhân đạo và giám sát việc sử dụng các khoản hỗ trợ đó.

Theo quy định hiện hành, trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ sở nuôi dưỡng thuộc về các cơ quan chức năng của tỉnh/thànhphố. Nhưng trên thực tế, hoạt động thanh kiểm tra tài chính còn rất yếu, chưa được quan tâm đúng mức ở nhiều địa phương. Mặc dù một số địa phương cũng đã tổ chức kiểm tra định kỳ, song chưa phát hiện ra những sai phạm của các tổ chức con nuôi nước ngoài.

5. Thủ tục, trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi còn bất cập

Mặc dù Nghị định 68/2002/NĐ-CP đã có nhiều cải cách trong trình tự thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi, song vẫn còn một số tồn tại bất cập cần được khắc phục.

Trước hết đó là sự bất cập về thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi. Trên thực tế, việc quản lý các dữ liệu về trẻ em có đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi hiện nay là do cơ sở nuôi dưỡng trực tiếp thực hiện. Mặc dù theo yêu cầu của pháp luật hiện hành, các cơ sở nuôi dưỡng của địa phương vẫn gửi danh sách trẻ em có đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài về Bộ Tư pháp. Nhưng trên thực tế, đó mới thuần túy chỉ là sự cung cấp danh sách về số lượng và họ tên của trẻ em (danh sách trích ngang), chưa kèm theo hồ sơ đầy đủ để bảo đảm trẻ em đã có đủ điều kiện để cho làm con nuôi. Đồng thời, việc gửi danh sách cho Cơ quan Trung ương cũng chỉ là hình thức để thông báo, bởi thực chất, Cơ quan Trung ương không thực hiện việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, mà các cơ sở nuôi dưỡng đã phối hợp với các tổ chức con nuôi nước ngoài giới thiệu trẻ em cho các gia đình xin nhận con nuôi. Quyền giới thiệu trẻ em nào là do cơ sở nuôi dưỡng quyết định.

Việc kiểm tra hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi cũng chỉ được thực hiện có tính hình thức. Mặc dù trên thực tế, nhiều địa phương giao toàn bộ trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ trẻ em cho cơ sở nuôi dưỡng và chuyển cho Sở Tư pháp kiểm tra, nhưng Sở Tư pháp cũng chỉ kiểm tra về hình thức, chiếu lệ rồi làm công văn gửi Cục Con nuôi. Để bảo đảm an toàn về hồ sơ của trẻ em, nhiều địa phương đã chuyển tất cả hồ sơ của trẻ em cho cơ quan Công an tỉnh xác minh, cho ý kiến. Nhưng trong đại đa số các trường hợp, cơ quan Công an cũng chỉ cho ý kiến dưới góc độ an ninh, chưa chú ý đến việc xác minh làm rõ về nguồn gốc thực tế của trẻ em. Sau khi có ý kiến của cơ quan Công an, thì Sở Tư pháp chuyển hồ sơ cho Cục Con nuôi.

Do có quy định “cắt khúc” về trách nhiệm của các cơ quan như vậy, cho nên nếu có sai sót về hồ sơ của trẻ em, thì không cơ quan nào chịu trách nhiệm hoàn toàn, mà đều có sự liên đới.

6. Thiếu sự đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan

Một trong những bất cập của việc thi hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP là thiếu sự đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi. Ủy ban nhân dân cấp xã nhiều nơi chưa thực hiện đúng các quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP về việc lập biên bản về tình trạng trẻ em bị bỏ rơi, mà sau đó chỉ cử cán bộ ký biên bản cho đủ thủ tục. Trong nhiều trường hợp còn chưa có sự tham gia của Công an xã. Sự phối hợp giữa các cơ quan thuộc chính quyền địa phương cũng còn hạn chế. Thậm chí có nơi chính quyền địa phương còn thông đồng với những người trung gian, môi giới trong việc thu gom trẻ em, làm sai lệch hồ sơ của trẻ em để trục lợi.

Ở các cơ quan cấp tỉnh, nhiều nơi chưa ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, công an, lao động thương binh xã hội hoặc tuy có ban hành, nhưng thực tế chỉ mang tính hình thức. Mối quan hệ giữa Sở Tư pháp và Sở Lao động – Thương binh và Xã hội ở một số tỉnh còn chưa chặt chẽ. Trong khi Sở LĐTBXH quản lý các vấn đề về tiếp nhận, nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em, chịu trách nhiệm về “đầu vào, đầu ra” hồ sơ của trẻ, thì Sở Tư pháp chỉ chịu trách nhiệm về các vấn đề pháp lý trong hồ sơ của trẻ em để giới thiệu làm con nuôi. Nhiều vấn đề liên quan đến lai lịch, nguồn gốc của trẻ em thì Sở Tư pháp không thể biết được, nếu kh��ng được Sở LĐTBXH hoặc cơ sở nuôi dưỡng cung cấp đầy đủ và trung thực. Ngoài ra, công tác quản lý của cơ quan cấp tỉnh ở một số địa phương đối với các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em cấp huyện, do cấp huyện thành lập, cũng còn nhiều sơ hở.

Ở cấp trung ương còn thiếu sự hợp tác thường xuyên và chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp và Bộ LĐTBXH trong việc chỉ đạo các vấn đề liên quan đến chức năng của cả hai bộ trong lĩnh vực con nuôi quốc tế (như hoạch định chính sách về nuôi con nuôi quốc tế, về cơ sở bảo trợ xã hội, về các vấn đề liên quan đến quản lý tài chính, hỗ trợ nhân đạo cho cơ sở nuôi dưỡng trẻ em). Thậm chí, trên một số vấn đề cụ thể, Bộ Lao động Thương binh và xã hội cho rằng, lĩnh vực con nuôi quốc tế đã được Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm, nên không có ý kiến.

7. Còn thiếu sự minh bạch trong việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài

Yêu cầu về sự minh bạch tài chính liên quan đến việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ sở nuôi dưỡng luôn được các quốc gia đặt ra. Trên thực tế ở nước ta, các khoản hỗ trợ nhân đạo phần lớn là do cơ sở nuôi dưỡng tiếp nhận và quản lý. Cơ sở nuôi dưỡng sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này và có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền của địa phương theo quy định. Nhưng qua kiểm tra tại một số địa phương cho thấy, cơ chế tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này khá lỏng lẻo. Phần lớn các khoản hỗ trợ này được thực hiện bằng tiền mặt, chỉ một số ít các tổ chức thực hiện bằng chuyển khoản. Các báo cáo của cơ sở nuôi dưỡng về việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này chưa đầy đủ và chính xác. Công tác quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài trong công tác hỗ trợ nhân đạo cũng còn nhiều hạn chế. Do đó, cần tạo ra sự minh bạch hoá trong vấn đề này để bảo đảm việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo đúng mục đích vì lợi ích của trẻ em.

C/ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

Sau 5 năm thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi nói chung cho thấy, chúng ta đã thu được nhiều kết quả, song cũng còn nhiều khiếm khuyết, tồn tại. Do đó, cần đề ra các giải pháp khắc phục để bảo đảm tốt hơn nữa quyền của trẻ em được cho làm con nuôi, cũng như chuẩn bị tích cực cho việc tham gia Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế.

Các giải pháp cơ bản là:

1. Cần tạo ra sự gắn kết/liên thông giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế, trong đó ưu tiên tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em; việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài chỉ được coi là giải pháp thay thế cuối cùng, khi không thể tìm được mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Muốn vậy, cần tăng cường hơn nữa công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong nhân dân nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vấn đề nuôi con nuôi trong nước, từ đó hướng đến mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Đây cũng là yêu cầu có tính nguyên tắc khi chúng ta chuẩn bị tham gia Công ước Lahay về nuôi con nuôi.

Các cơ quan có thẩm quyền trong nước, nhất là các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, phải tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để tìm mái ấm gia đình cho trẻ em ở trong nước. Chỉ sau khi đã chứng minh rằng, không tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước, thì mới giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Các giấy tờ, trình tự, thủ tục liên quan đến tìm mái ấm cho trẻ em ở trong nước cần được hoàn thiện theo hướng chặt chẽ hơn, khắt khe hơn với những yêu cầu cao hơn.

Cùng với đó, Bộ Lao động Thương binh và xã hội cần có sự chỉ đạo đối với tất cả các Ủy ban nhân dân tỉnh để rà soát lại tất cả các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trên toàn quốc, bảo đảm các cơ sở nuôi dưỡng phải có đủ các điều kiện để tiếp nhận, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em theo quy định của pháp luật. Đồng thời, kiên quyết đóng cửa các cơ sở nuôi dưỡng không đủ điều kiện, hoặc chỉ thành lập ra để nhằm mục đích “thu gom” trẻ em cho làm con nuôi người nước ngoài, đặc biệt là các cơ sở không phải do ngành Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý.

2. Hoàn thiện cơ chế minh bạch về thủ tục, trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi, nhất là sự minh bạch về các vấn đề tài chính có liên quan đến nuôi con nuôi quốc tế để có thể kiểm soát được từ trung ương xuống địa phương, chống sự lạm dụng vì mục đích vụ lợi.

Một trong những giải pháp để thực hiện minh bạch về tài chính trong lĩnh vực con nuôi là cần hoàn thiện các quy định về phí, lệ phí giải quyết việc nuôi con nuôi trên cơ sở phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của Công ước Lahay về nuôi con nuôi mà Việt Nam chuẩn bị tham gia. Một điều cần lưu ý nữa là, cần tách bạch hai hoạt động hỗ trợ nhân đạo và giải quyết việc nuôi con nuôi thành hai hoạt động biệt lập, không phải là điều kiện của nhau trong công tác quản lý. Có như vậy mới có thể kiểm tra, giám sát tốt việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi, cũng như theo dõi, kiểm tra việc sử dụng đúng pháp luật các khoản thu từ phí, lệ phí giải quyết việc nuôi con nuôi trong phạm vi cả nước.

3. Tăng cường vai trò của Cơ quan con nuôi Trung ương

Tăng cường vai trò của Cơ quan Trung ương trong lĩnh vực nuôi con nuôi là hết sức cần thiết, một mặt, nhằm đáp ứng yêu cầu khi tham gia Công ước Lahay, mặt khác nhằm tập trung quản lý thống nhất lĩnh vực nuôi con nuôi vào một đầu mối.

Cơ quan con nuôi Trung ương cần được củng cố, tăng cường cả về số lượng và chất lượng để có thể đảm nhiệm được trọng trách nặng nề hơn trong điều kiện nước ta tham gia Công ước Lahay. Trong cơ chế xử lý vấn đề nuôi con nuôi, Cơ quan con nuôi Trung ương phải là đầu mối trong việc tìm mái ấm gia đình cho trẻ em, chịu trách nhiệm về hồ sơ của cha mẹ nuôi, bảo đảm trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi theo quy định của pháp luật và đã có sự tự nguyện đồng ý của những người có quyền cho con nuôi. Trong khuôn khổ Công ước Lahay, Cơ quan Trung ương phải trực tiếp tiến hành mọi biện pháp thích hợp nhằm: i) cung cấp các thông tin pháp luật, số liệu thống kê và biểu mẫu chuẩn về nuôi con nuôi; ii) báo cáo về tình hình thực thi Công ước và trong chừng mực có thể, loại bỏ mọi trở ngại đối với việc thực hiện Công ước. Đây là hai nhiệm vụ tối quan trọng mà Cơ quan Trung ương phải trực tiếp thực hiện, không được ủy quyền cho cơ quan nào. Đồng thời, trong khuôn khổ pháp luật nước mình, Cơ quan Trung ương có trách nhiệm “loại bỏ mọi trở ngại đối với việc thực thi Công ước”. Đây cũng là công việc nặng nề và phức tạp, đòi hỏi sự cương quyết, nghiêm túc, tinh thần trách nhiệm cao của bộ máy cán bộ công chức làm việc trong lĩnh vực nuôi con nuôi.

Ngoài ra, Cơ quan con nuôi Trung ương còn có trách nhiệm trực tiếp hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác tiến hành mọi biện pháp thích hợp nhằm ngăn chặn việc thu lợi bất chính liên quan đến nuôi con nuôi hoặc ngăn chặn mọi hành vi khác trái với mục đích của Công ước. Đây là một nhiệm vụ không đơn giản đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, khi mà các hoạt động trung gian, môi giới bất hợp pháp, các hành vi tham nhũng, đưa và nhận hối lộ trong lĩnh vực con nuôi quốc tế diễn ra ngày càng tinh vi hơn và nghiêm trọng hơn.

4. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương để bảo đảm việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong và ngoài nước một cách chặt chẽ, đúng pháp luật luôn là yêu cầu của bất cứ một sự cải cách nào. Đó là sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành ở Trung ương từ công tác hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật về nuôi con nuôi, đến việc xử lý từng vụ việc cụ thể. Đồng thời, cũng cần quy định rõ trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan đối với từng khâu trong toàn bộ quy trình giải quyết, qua đó cũng xác định được rõ hơn sự phối hợp giữa các ngành là để xử lý vấn đề gì.

Nguyên tắc của sự phối hợp này cần được thể hiện trong dự thảo Luật Nuôi con nuôi để từ đó xác định một cơ chế xử lý thống nhất, phù hợp với nguyên tắc khi Cơ quan Trung ương thực hiện thẩm quyền trong khuôn khổ Công ước Lahay, có thể phối hợp với các cơ quan công quyền để nhằm bảo đảm thực thi Công ước, lọai bỏ mọi trở ngại đối với việc thực thi Công ước.

5. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi, nhất là lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Công tác thanh tra, kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên, định kỳ và có trọng tâm, trọng điểm, tránh hình thức, đối phó. Nội dung thanh tra, kiểm tra cần tập trung vào việc tuân thủ các quy định pháp luật khi lập hồ sơ cho trẻ em (từ khi được tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng đến khi được giới thiệu làm con nuôi); hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận của các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam./.

(MINH KHUE LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)