Mục lục bài viết
1. Quy định mới về mở phòng khám đa khoa tư nhân ?
>> Luật sư tư vấn pháp luật Doanh nghiệp trực tuyến, gọi: 1900.6162
Trả lời:
Phòng khám đa khoa là một trong các hình thức tổ chức của cơ sở khám chữa bệnh theo quy định pháp luật hiện hành. Phòng khám đa khoa phải được cấp phép hoạt động để có thể hoạt động theo đúng quy định pháp luật. Điều kiện để cấp giấy phép hoạt động đối với phòng khám đa khoa được quy định tại Điều 25 Nghị định 109/2016/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung bởi Khoản 7 Điều 11 Nghị định 155/2018/NĐ-CP:
"Điều 23a. Điều kiện chung để cấp giấy phép hoạt động đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
1. Cơ sở vật chất:
a) Có địa điểm cố định (trừ trường hợp tổ chức khám bệnh, chữa bệnh lưu động);
b) Bảo đảm các điều kiện về an toàn bức xạ, phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật;
c) Phải bố trí khu vực tiệt trùng để xử lý dụng cụ y tế sử dụng lại, trừ trường hợp không có dụng cụ phải tiệt trùng lại hoặc có hợp đồng với cơ sở y tế khác để tiệt trùng dụng cụ.
2. Trang thiết bị y tế:
a) Có đủ trang thiết bị y tế phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn của cơ sở;
b) Riêng cơ sở khám, điều trị bệnh nghề nghiệp ít nhất phải có bộ phận xét nghiệm sinh hóa;
c) Phòng khám tư vấn sức khỏe hoặc phòng tư vấn sức khỏe qua các phương tiện công nghệ thông tin, viễn thông không bắt buộc phải có trang thiết bị y tế quy định tại điểm a, b khoản này nhưng phải có đủ các phương tiện công nghệ thông tin, viễn thông, thiết bị phù hợp với phạm vi hoạt động đăng ký.
3. Nhân lực:
a) Mỗi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có một người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật. Người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật và trưởng các khoa chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Là bác sỹ có chứng chỉ hành nghề có phạm vi hoạt động chuyên môn phù hợp phạm vi hoạt động chuyên môn của cơ sở....
- Có thời gian hành nghề khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 36 tháng sau khi được cấp chứng chỉ hành nghề hoặc có thời gian trực tiếp tham gia khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 54 tháng. Việc phân công, bổ nhiệm người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải được thể hiện bằng văn bản;
- Là người hành nghề cơ hữu tại cơ sở.
b) Ngoài người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, các đối tượng khác làm việc trong cơ sở nếu có thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh thì phải có chứng chỉ hành nghề và chỉ được thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi công việc được phân công. Căn cứ vào phạm vi hoạt động chuyên môn, văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận đào tạo và năng lực của người hành nghề, người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phân công người hành nghề được thực hiện các kỹ thuật chuyên môn bằng văn bản;
c) Kỹ thuật viên xét nghiệm có trình độ đại học được đọc và ký kết quả xét nghiệm. Trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không có bác sỹ chuyên khoa xét nghiệm hoặc kỹ thuật viên xét nghiệm có trình độ đại học thì bác sỹ chỉ định xét nghiệm đọc và ký kết quả xét nghiệm;
d) Cử nhân X-Quang có trình độ đại học được đọc và mô tả hình ảnh chẩn đoán. Trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không có bác sỹ chuyên khoa chẩn đoán hình ảnh hoặc bác sỹ X-Quang thì bác sỹ chỉ định kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh đọc và ký kết quả chẩn đoán hình ảnh;
đ) Các đối tượng khác tham gia vào quá trình khám bệnh, chữa bệnh nhưng không cần phải cấp chứng chỉ hành nghề theo quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh thì được phép thực hiện các hoạt động theo phân công của người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (kỹ sư vật lý y học, kỹ sư xạ trị, âm ngữ trị liệu, tâm lý trị liệu và các đối tượng khác), việc phân công phải phù hợp với văn bằng chuyên môn của người đó....
Điều 25. Điều kiện cấp giấy phép hoạt động đối với phòng khám đa khoa
Ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 23a Nghị định này, phòng khám đa khoa phải đáp ứng thêm các điều kiện sau:
1. Quy mô phòng khám đa khoa:
a) Có ít nhất 02 trong 04 chuyên khoa nội, ngoại, sản, nhi;
b) Có bộ phận cận lâm sàng (xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh).2. Cơ sở vật chất: Có phòng cấp cứu, phòng lưu người bệnh, phòng khám chuyên khoa và phòng tiểu phẫu (nếu thực hiện tiểu phẫu). Các phòng khám trong phòng khám đa khoa phải có đủ diện tích để thực hiện kỹ thuật chuyên môn.
3. Thiết bị y tế: Có hộp thuốc chống sốc và đủ thuốc cấp cứu chuyên khoa.
4. Nhân sự:
Số lượng bác sỹ khám bệnh, chữa bệnh hành nghề cơ hữu phải đạt tỷ lệ ít nhất là 50% trên tổng số bác sỹ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh của phòng khám đa khoa. Người phụ trách các phòng khám chuyên khoa và bộ phận cận lâm sàng (xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh) thuộc Phòng khám đa khoa phải là người làm việc cơ hữu tại phòng khám."
Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép hoạt động đối với phòng khám đa khoa (được quy định tại Điều 46 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, hướng dẫn cụ thể tại Điều 43 Nghị định 109/2016/NĐ-CP bao gồm:
- Đơn đề nghị cấp giấy phép hoạt động theo Mẫu 01 Phụ lục XI ban hành kèm theo Nghị định này;
- Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân hoặc giấy chứng nhận đầu tư đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có vốn đầu tư nước ngoài;
- Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; người phụ trách bộ phận chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
- Danh sách đăng ký người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (bao gồm đăng ký người hành nghề và người làm việc chuyên môn y tế tại cơ sở nhưng không thuộc diện phải cấp chứng chỉ hành nghề) theo mẫu quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Nghị định này;
- Bản kê khai cơ sở vật chất, thiết bị y tế, tổ chức và nhân sự của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo Mẫu 02 Phụ lục XI ban hành kèm theo Nghị định này;
- Tài liệu chứng minh cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đáp ứng điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị y tế, tổ chức nhân sự phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn của một trong các hình thức tổ chức quy định tại Mục 1 Chương III Nghị định này;
- Danh mục chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đề xuất trên cơ sở danh mục chuyên môn kỹ thuật do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành. Bài viết tham khảo thêm:Xin luật sư tư vấn về mở phòng khám tư nhân ?
Trên đây là tư vấn của Luật Minh Khuê, Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay tới số: 1900.6162 để được giải đáp.
2. Quy định về thủ tục cấp phép phòng khám, chữa bệnh ?
Luật sư phân tích:
Công ty luật Minh Khuê xin giải đáp thắc mắc của khách hàng về thủ tục, điều kiện cấp giấy phép phòng khám của đơn vị, tổ chức.
Theo thông tin bạn cung cấp, thì bộ phận y tế của công ty bạn có hoạt động cấp phát thuốc, ngoài ra, không cung cấp thông tin gì thêm về hoạt động thăm khám, chữa bệnh. Viêc khám bệnh, chữa bệnh được giải thích gồm các hoạt động sau:
- Khám bệnh là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm khám thực thể, khi cần thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò chức năng để chẩn đoán và chỉ định phương pháp điều trị phù hợp đã được công nhận.
- Chữa bệnh là việc sử dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật đã được công nhận và thuốc đã được phép lưu hành để cấp cứu, điều trị, chăm sóc, phục hồi chức năng cho người bệnh.
Bạn tham khảo, y sỹ và điều dưỡng có một trong các hoạt động trong việc khám bệnh, chữa bệnh trên hay không, nếu có có thì buộc phải tổ chức bộ phận y tế theo hình thức của cơ sở khám chữa bệnh dưới đây:
Điều 41 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, hướng dẫn tại Điều 3 Nghị định 87/2011/NĐ-CP của Chính phủ thì cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải hoạt động dưới các hình thức tổ chức sau:
"Điều 3. Hình thức tổ chức của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
"1. Tổ chức và cá nhân thực hiện hoạt động khám bệnh, chữa bệnh phải theo các hình thức tổ chức của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh sau đây:
a) Bệnh viện bao gồm bệnh viện đa khoa, bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện y học cổ truyền;
b) Cơ sở giám định y khoa;
c) Phòng khám bệnh, chữa bệnh bao gồm phòng khám đa khoa, phòng khám chuyên khoa, phòng khám bác sỹ gia đình, phòng chẩn trị y học cổ truyền và bệnh xá;
d) Nhà hộ sinh;
đ) Cơ sở chẩn đoán bao gồm phòng chẩn đoán hình ảnh và phòng xét nghiệm;
e) Cơ sở dịch vụ y tế bao gồm cơ sở dịch vụ tiêm (chích), thay băng, đếm mạch, đo nhiệt độ, đo huyết áp; cơ sở dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà; cơ sở dịch vụ cấp cứu, hỗ trợ vận chuyển người bệnh trong nước và ra nước ngoài; cơ sở dịch vụ kính thuốc; cơ sở dịch vụ làm răng giả;
g) Trạm y tế cấp xã; y tế cơ quan, đơn vị, tổ chức.
2. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định chi tiết điều kiện cấp giấy phép hoạt động đối với từng hình thức tổ chức của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh quy định tại khoản 1 Điều này. "
Điều 37. Thông tư 41/2011/TT-BYT của Bộ Y tế : Hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hướng dẫn về cơ sở y tế của cơ quan, tổ chức
"1. Cơ quan, đơn vị, tổ chức có thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh thì phải thực hiện theo một trong các hình thức tổ chức quy định tại Điều 24, 25 và 36 Thông tư này."
Bộ phận y tế của công ty bạn phải lựa chọn một trong các loại hình tổ chức tại Điều 24, 25, 36 của Thông tư 41/2015/TT-BYT của Bộ Y tế sửa đổi bổ sung thông tư 41/2011/TT-BYT gồm các loại hình phòng khám đa khoa, chuyên khoa hoặc mô hình trạm xá, trạm y tế xã và xin giấy phép hoạt động của Giám đốc Sở Y tế cấp, nếu đủ các điều kiện của loại hình tổ chức đó và y sỹ phải đáp ứng được điều kiện chuyên môn và được cấp chứng chỉ hành nghề y theo chuyên môn của mình. Bạn cung cấp, đơn vị bạn chỉ có một y sỹ, hai điều dưỡng thì mô hình lựa chọn thích hợp là trạm xá.
Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng qua tổng đài 1900.6162. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
3. Tư vấn về cấp phép hành nghề khám chữa bệnh ?
Trả lời:
1. Điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề với người Việt Nam
Điều 18. Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009:
a, Có một trong các văn bằng, giấy chứng nhận sau đây phù hợp với hình thức hành nghề khám bệnh, chữa bệnh:
- Văn bằng chuyên môn liên quan đến y tế được cấp hoặc công nhận tại Việt Nam;
- Giấy chứng nhận là lương y;
- Giấy chứng nhận là người có bài thuốc gia truyền hoặc có phương pháp chữa bệnh gia truyền.
b, Có văn bản xác nhận quá trình thực hành, trừ trường hợp là lương y, người có bài thuốc gia truyền hoặc có phương pháp chữa bệnh gia truyền.
c, Có giấy chứng nhận đủ sức khỏe để hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
d, Không thuộc trường hợp đang trong thời gian bị cấm hành nghề, cấm làm công việc liên quan đến chuyên môn y, dược theo bản án, quyết định của Tòa án; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đang trong thời gian chấp hành bản án hình sự, quyết định hình sự của tòa án hoặc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; đang trong thời gian bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên có liên quan đến chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh; mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
- Đáp ứng điều kiện tương tự với người Việt Nam, ngoài ra thêm các điều kiện sau:
- Đáp ứng yêu cầu về sử dụng ngôn ngữ trong khám bệnh, chữa bệnh quy định
- Có lý lịch tư pháp được cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại xác nhận.
- Có giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lao động của Việt Nam cấp theo quy định của pháp luật về lao động.
3. Xác nhận quá trình thực hành
Điều 24, Luật Khám bênh, chữa bênh
a, Đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại trung tâm y tế, y tế cơ quan đơn vị, tổ chức đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề bắt đầu thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh từ ngày 01 tháng 01 năm 2012 đến nay thì phải thực hành theo quy định
- Người có văn bằng chuyên môn liên quan đến y tế được cấp hoặc công nhận tại Việt Nam, trước khi được cấp chứng chỉ hành nghề, phải qua thời gian thực hành tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh sau đây:
+ 18 tháng thực hành tại bệnh viện, việc nghiên cứu có giường bệnh (sau đây gọi chung là bệnh viện) đối với bác sĩ;
+ 12 tháng thực hành tại bệnh viện đối với y sỹ;
+ 09 tháng thực hành tại bệnh viện có khoa phụ sản hoặc tại nhà hộ sinh đối với hộ sinh viên.
+ 09 tháng thực hành tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đối với điều dưỡng viên, kỹ thuật viên
- . Người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm xác nhận bằng văn bản về quá trình thực hành cho người đã thực hành tại cơ sở của mình, bao gồm nội dung về thời gian, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.
b, Xác nhận quá trình thực hành trước ngày 01/01/2012 đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại trung tâm y tế (trung tâm y tế dự phòng, trung tâm y tế các quận huyện thị xã, trung tâm phòng chống bệnh xã hội, trung tâm y tế các bộ, ngành), y tế cơ quan, đơn vị, tổ chức đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề phải là viên chức, hợp đồng lao động dài hạn:
- Trường hợp trung tâm y tế, cơ quan, đơn vị, tổ chức có thành lập đơn vị khám bệnh, chữa bệnh: thời gian thực hành khám bệnh, chữa bệnh do người phụ trách y tế cơ quan, đơn vị, tổ chức xác nhận kèm theo quyết định thành lập cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của cơ quan có thẩm quyền;
- Trường hợp trung tâm y tế, cơ quan, đơn vị, tổ chức không thành lập đơn vị khám bệnh, chữa bệnh: việc xác nhận thời gian thực hành cho người hành nghề sẽ do thủ trưởng cơ quan xác nhận và kèm theo văn bản phân công người đó làm công tác y tế của cơ quan, đơn vị, tổ chức;
4. Hồ sơ, thủ tục xin cấp giấy phép hành nghề y với người Việt Nam
a, Hồ sơ
- Đơn đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề theo mẫu 01 quy định tại Phụ lục 01 ban hành kèm theo Thông tư 41/2011/TT-BYT của Bộ Y tế: Hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
- Hai ảnh 04 x 06 cm được chụp trên nền trắng trong thời gian không quá 06 tháng tính đến ngày nộp đơn;
- Bản sao có chứng thực văn bằng hoặc giấy chứng nhận trình độ chuyên môn đối với lương y hoặc giấy chứng nhận bài thuốc gia truyền hoặc phương pháp chữa bệnh gia truyền do Bộ trưởng Bộ Y tế hoặc Giám đốc Sở Y tế tỉnh cấp;
+ Văn bằng chuyên môn y.
+ Văn bằng hoặc giấy chứng nhận trình độ chuyên môn đối với lương y hoặc giấy chứng nhận bài thuốc gia truyền hoặc phương pháp khám bệnh, chữa bệnh gia truyền do Bộ trưởng Bộ Y tế hoặc Giám đốc Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi tắt là tỉnh) cấp;
+ Văn bằng chuyên môn của kỹ thuật viên: tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành kỹ thuật y học; nếu tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành hóa học, sinh học, dược sĩ đại học từ trước ngày Thông tư này có hiệu lực thì phải có chứng chỉ hoặc giấy chứng nhận đào tạo chuyên ngành kỹ thuật y học (xét nghiệm), thời gian học tối thiểu 3 tháng tại các đơn vị đã được cấp mã số đào tạo liên tục và thẩm định chương trình đào tạo theo quy định tại Thông tư số 22/2013/TT-BYT ngày 09 tháng 8 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế về hướng dẫn việc đào tạo liên tục cho cán bộ y tế; trường hợp chứng chỉ hoặc giấy chứng nhận đào tạo đã được cấp trước ngày Thông tư số 22/2013/TT-BYT có hiệu lực thì phải do cơ sở có chức năng đào tạo, cấp chứng chỉ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
+ Văn bằng của bác sĩ y học dự phòng;
+ Trường hợp người tốt nghiệp cử nhân y khoa trình độ đại học do nước ngoài cấp gồm: cử nhân lâm sàng, cử nhân nội khoa và ngoại khoa, cử nhân điều trị học (y đa khoa), cử nhân Trung Y (Y học cổ truyền), cử nhân Răng Hàm Mặt, cử nhân Răng (Nha sĩ) phải có văn bằng, chứng chỉ sau đây:
Tốt nghiệp trước ngày 01 tháng 01 năm 2012: có bằng cử nhân y khoa trong trường hợp nước cấp bằng có Hiệp định ký kết với Việt Nam về việc công nhận văn bằng tương đương hoặc có bằng cử nhân y khoa và văn bản công nhận của Cục Khảo thí, Bộ Giáo dục và Đào tạo trong trường hợp nước cấp bằng chưa có Hiệp định ký kết với Việt Nam về việc công nhận văn bằng tương đương; Văn bằng, chứng chỉ chuyên môn y tế đào tạo bổ sung theo ngành, chuyên ngành phù hợp, có thời gian đào tạo cộng dồn tối thiểu là 12 tháng tại Trường Đại học y, dược hoặc bệnh viện đa khoa, chuyên khoa Trung ương của Việt Nam.
Tốt nghiệp sau ngày 01 tháng 01 năm 2012: có bằng cử nhân y khoa trong trường hợp nước cấp bằng có Hiệp định ký kết với Việt Nam về việc công nhận văn bằng tương đương hoặc có bằng cử nhân y khoa và văn bản công nhận của Cục Khảo thí, Bộ Giáo dục và Đào tạo trong trường hợp nước cấp bằng chưa có Hiệp định ký kết với Việt Nam về việc công nhận văn bằng tương đương; Giấy chứng nhận hoàn thành khóa học bổ sung theo ngành, chuyên ngành phù hợp, thời gian đào tạo tối thiểu là 12 tháng tại trường đại học y, dược của Việt Nam đã được cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ đào tạo mã ngành tương ứng theo chương trình đào tạo bổ sung cho từng ngành theo hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Y tế.
+ Trường hợp mất văn bằng chuyên môn thì phải có giấy chứng nhận tốt nghiệp hoặc bản sao chứng thực giấy chứng nhận thay thế bằng tốt nghiệp do cơ sở đào tạo nơi cấp văn bằng chuyên môn cấp;
- Giấy xác nhận quá trình thực hành;
+ Giấy xác nhận quá trình thực hành : bằng bác sĩ nội trú, bằng chuyên khoa cấp I, bằng chuyên khoa cấp II, chứng chỉ hoặc giấy chứng nhận chuyên khoa định hướng có tổng số thời gian thực hành quy đổi phải đủ theo quy định;
+ Trường hợp thời gian đào tạo chuyên khoa định hướng không đủ thời gian thì phải bổ sung giấy xác nhận quá trình thực hành để đủ thời gian thực hành
- Sơ yếu lý lịch có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú hoặc xác nhận của thủ trưởng đơn vị nơi công tác;
- Phiếu lý lịch tư pháp (chỉ áp dụng khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp có hướng dẫn triển khai thực hiện theo quy định của Luật lý lịch tư pháp);
b, thẩm quyền
- Bộ trưởng Bộ Y tế cấp, cấp lại và thu hồi chứng chỉ hành nghề đối với các trường hợp sau đây:
+ Người làm việc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc Bộ Y tế;
+ Người làm việc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc các bộ khác
- Giám đốc Sở Y tế cấp chứng chỉ hành nghề đối với người làm việc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn quản lý :
c, Thời hạn
Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Bộ trưởng Bộ Y tế ; trường hợp cần xác minh đối với người được đào tạo ở nước ngoài hoặc có chứng chỉ hành nghề do nước ngoài cấp thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 180 ngày; nếu không cấp chứng chỉ hành nghề thì phải trả lời bằng văn bản và nêu lý do.
5. Hồ sơ, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề đối với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
a, Hồ sơ
- Đơn đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề theo mẫu 02 quy định tại Phụ lục 01 ban hành kèm theo Thông tư này
- Hai ảnh 04 x 06 cm được chụp trên nền trắng trong thời gian không quá 06 tháng tính đến ngày nộp đơn;
- Bản sao có chứng thực văn bằng chuyên môn;
- Giấy xác nhận quá trình thực hành;
- Bản sao có chứng thực giấy chứng nhận biết tiếng Việt thành thạo.
Trường hợp người đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề không có giấy chứng nhận biết tiếng Việt thành thạo thì phải có người phiên dịch để phiên dịch từ ngôn ngữ của người đó đăng ký sử dụng sang tiếng Việt.
Trường hợp người đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề đăng ký sử dụng ngôn ngữ khác mà không phải là tiếng mẹ đẻ của người đó để khám bệnh, chữa bệnh thì phải có giấy chứng nhận sử dụng thành thạo ngôn ngữ đó và phải có người phiên dịch để phiên dịch từ ngôn ngữ đó sang tiếng Việt.
Người phiên dịch phải có giấy chứng nhận đủ trình độ phiên dịch phù hợp với ngôn ngữ mà người nước ngoài đăng ký sử dụng trong khám bệnh, chữa bệnh và có hợp đồng lao động với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi người nước ngoài làm việc;
- Bản sao có chứng thực giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lao động của Việt Nam cấp;
- Trường hợp các văn bản quy định trên do tổ chức nước ngoài cấp phải được hợp pháp hóa lãnh sự và dịch ra tiếng Việt, bản dịch phải được chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Giấy chứng nhận đủ sức khỏe để hành nghề khám bệnh, chữa bệnh do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế cấp.
b, Thẩm quyền
Bộ trưởng Bộ Y tế cấp chứng chỉ cho người nước ngoài đến hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam.
c, Thời hạn
Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Bộ trưởng Bộ Y tế ; trường hợp cần xác minh đối với người được đào tạo ở nước ngoài hoặc có chứng chỉ hành nghề do nước ngoài cấp thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 180 ngày; nếu không cấp chứng chỉ hành nghề thì phải trả lời bằng văn bản và nêu lý do.
Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng qua emailluatsu@luatminhkhue.vn hoặc qua tổng đài 1900.6162. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
4. Tư vấn mở phòng khám về xương khớp ?
>> Luật sư tư vấn luật doanh nghiệp gọi:1900.6162
Luật sư tư vấn:
Tại điều 43 Luật khám chữa bệnh 2009 quy định điều kiện cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh như sau:
"Điều 43. Điều kiện cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
1. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được cấp giấy phép hoạt động phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Đáp ứng các quy định của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
b) Có đủ người hành nghề phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn;
c) Người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có thời gian hành nghề khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 36 tháng.
2. Trường hợp đăng ký thành lập phòng khám chuyên khoa hoặc bác sỹ gia đình thì ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người đứng đầu cơ sở phải là người hành nghề có bằng cấp chuyên môn phù hợp với loại hình hành nghề.
3. Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết điều kiện cấp giấy phép hoạt động quy định tại Điều này đối với từng hình thức tổ chức của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo thẩm quyền quản lý."
Điều 25 Thông tư 41/2011/TT-BYT Hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh quy định Điều kiện cấp giấy phép hoạt động đối với phòng khám chuyên khoa:
"1. Cơ sở vật chất:
a) Xây dựng và thiết kế:
- Địa điểm cố định, tách biệt với nơi sinh hoạt gia đình;
- Xây dựng chắc chắn, đủ ánh sáng, có trần chống bụi, tường và nền nhà phải sử dụng các chất liệu dễ tẩy rửa làm vệ sinh;
b) Phòng khám chuyên khoa phải có buồng khám bệnh, chữa bệnh có diện tích ít nhất là 10m2 và nơi đón tiếp người bệnh, trừ phòng tư vấn khám bệnh qua điện thoại, phòng tư vấn chăm sóc sức khỏe qua các phương tiện công nghệ thông tin, viễn thông và thiết bị y tế. Riêng đối với phòng khám chuyên khoa ngoại, phòng khám chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ phải có thêm buồng lưu người bệnh có diện tích ít nhất 12 m2; phòng khám phục hồi chức năng phải có thêm buồng phục hồi chức năng có diện tích ít nhất là 10 m2;
c) Ngoài quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này, tùy theo phạm vi hoạt động chuyên môn đăng ký, phòng khám phải đáp ứng thêm các điều kiện sau:
- Có buồng thủ thuật với diện tích ít nhất là 10 m2 nếu có thực hiện thủ thuật, bao gồm cả kỹ thuật cấy ghép răng (implant);
- Có buồng thăm dò chức năng với diện tích ít nhất là 10 m2 nếu có thực hiện thăm dò chức năng;
- Có buồng khám phụ khoa có diện tích ít nhất là 10 m2 nếu thực hiện việc khám phụ khoa hoặc khám các bệnh lây truyền qua đường tình dục;
- Có buồng thực hiện kỹ thuật kế hoạch hóa gia đình có diện tích ít nhất là 10 m2 nếu thực hiện kỹ thuật kế hoạch hóa gia đình;
- Có buồng vận động trị liệu có diện tích ít nhất là 40 m2 nếu thực hiện vận động trị liệu;
- Phòng khám chuyên khoa răng hàm mặt nếu có từ ba ghế răng trở lên thì diện tích cho mỗi ghế răng ít nhất là 5 m2;
- Phòng khám chuyên khoa nếu sử dụng thiết bị bức xạ (bao gồm cả thiết bị X-quang chụp răng gắn liền với ghế răng) thì phải đáp ứng các quy định của pháp luật về an toàn bức xạ;
d) Bảo đảm xử lý rác thải y tế theo quy định của pháp luật; bảo đảm vô trùng đối với buồng thực hiện thủ thuật, buồng cắm Implant, buồng kế hoạch hóa gia đình;
đ) Bảo đảm có đủ điện, nước và các điều kiện khác để phục vụ chăm sóc người bệnh.
2. Thiết bị y tế:
a) Có đủ thiết bị, dụng cụ y tế phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn mà cơ sở đăng ký;
b) Có hộp thuốc chống choáng và đủ thuốc cấp cứu chuyên khoa;
c) Phòng tư vấn khám bệnh qua điện thoại, phòng tư vấn chăm sóc sức khỏe qua các phương tiện công nghệ thông tin, viễn thông và thiết bị y tếkhông phải có thiết bị, dụng cụ y tế quy định tại Điểm a và b Khoản 2 Điều này nhưng phải có đủ các phương tiện công nghệ thông tin, viễn thông, thiết bị phù hợp với hoạt động tư vấn đã đăng ký.
3. Nhân sự:
a) Người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của phòng khám chuyên khoa phải là bác sỹ có chứng chỉ hành nghề phù hợp với chuyên khoa mà phòng khám đăng ký và có thời gian khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 54 tháng tại chuyên khoa đó;
b) Ngoài người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của phòng khám chuyên khoa, các đối tượng khác làm việc trong phòng khám chuyên khoa nếu có thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh thì phải có chứng chỉ hành nghề và chỉ được thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi công việc được phân công. Việc phân công phải phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn được ghi trong chứng chỉ hành nghề của người đó;"
- Thủ tục thành lập phòng khám được thực hiện như sau:
Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp cho phòng khám:
Có giấy phép hoạt động do Sở y tế tỉnh/ thành phố cấp.
- Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép hoạt động gồm có:
+ Đơn đề nghị cấp giấy phép hoạt động.
+ Bản sao giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh của phòng khám.
+ Bản sao chứng chỉ hành nghề của người từng hành nghề trong phòng khám.
+ Bản kê khai cơ sở vật chất, thiết bị y tế, bản mô tả mô hình tổ chức và hồ sơ nhân sự.
+ Tài liệu chứng minh cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại điều 43 của Luật khám chữa bệnh.
Mức phí đối với việc thành lập đăng kí kinh doanh là 200.000 đồng
Về mức phí, lệ phí trong lĩnh vực y, dược quý khách vui lòng tham khảo biểu mức thu phí, lệ phí ban hành kèm theo Thông tư 03/2013/TT-BTC quy định phí thẩm định kinh doanh thương mại có điều kiện; thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề y, dược; lệ phí cấp giấy phép xuất, nhập khẩu trang thiết bị y tế, dược phẩm; cấp chứng chỉ hành nghề y; cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám, chữa bệnh.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật doanh nghiệp qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
5. Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam và Pháp luật Quốc tế về khám chữa bệnh
Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Sự cần thiết phải đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về khám bệnh, chữa bệnh:
1. Cơ sở pháp lý:
Ngày 21/11/2007, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 11/2007/QH12 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007- 2011), trong đó có Dự án Luật khám bệnh, chữa bệnh. Để có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn phục vụ cho việc xây dựng Dự án Luật này, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 3/6/2008 (sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2009) thì một trong những yêu cầu phải làm là “Tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến Dự án Luật…Tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu, Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có liên quan đến Dự án Luật”. Chính vì vậy, để xây dựng Dự án Luật Khám bệnh, khám bệnh, việc đánh giá hệ thống các văn bản hiện hành về khám bệnh, chữa bệnh từ khi Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân được ban hành (1989) đến nay và nghiên cứu, tham khảo pháp luật quốc tế về khám bệnh, chữa bệnh là hết sức cần thiết.
>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.6162
2. Cơ sở thực tiễn:
Pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh- một bộ phận cấu thành của Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân – đạo luật đầu tiên về công tác y tế của nước ta được ban hành năm 1989, trên cơ sở các quy định về khám bệnh, chữa bệnh của đạo luật này, hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành tạo thành một hệ thống pháp luật – hành lang pháp lý quan trọng để quản lý nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh.
Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển kinh tế – xã hội và sự phát triển của khoa học kỹ thuật y học trong nước và thế giới, đặc biệt là trong tình hình mới hiện nay – thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước đã làm biến đổi và phát sinh nhiều quan hệ xã hội mới đòi hỏi pháp luật phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để từng bước hài hòa với chuẩn mực của pháp luật quốc tế, đáp ứng với yêu cầu hội nhập.
Bên cạnh đó, sau thời gian 18 năm kể từ khi Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân được ban hành, 6/7 nội dung chính của luật đã dần hết hiệu lực bởi được thay thế bởi các luật, pháp lệnh chuyên sâu hơn, chỉ còn lại nội dung quy định về khám bệnh, chữa bệnh. 6 nội dung đã được thay thế là:
1. Nội dung quy định về vệ sinh trong sinh hoạt và lao động, vệ sinh công cộng, vệ sinh thực phẩm, phòng và chống dịch bệnh.
Các nội dung này đã được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường ngày 27/12/1993, Bộ luật Lao động ngày 23/6/1994 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động ngày 02/4/2002, Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm ngày 26/7/2003 (sắp tới sẽ được nâng lên thành Luật An toàn thực phẩm), Pháp lệnh Bảo vệ kiểm dịch thực vật ngày 25/7/2001, Pháp lệnh Thú y ngày 29/4/2004, Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) ngày 29/6/2006, Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp, Luật Hàng hải, Luật Giao thông đường bộ, Luật Hàng không, Luật Đường thuỷ nội địa, Luật Đường sắt Việt Nam, Luật Xây dựng, Luật Giáo dục… và Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm .
2. Nội dung quy định về thuốc phòng bệnh, chữa bệnh.
Toàn bộ nội dung về thuốc phòng bệnh, chữa bệnh đã được tách ra quy định tại Luật Dược ngày 14/6/2005.
3. Nội dung quy định về y học, dược học cổ truyền dân tộc.
Một số nội dung về y, dược học cổ truyền đã được các luật, pháp lệnh khác điều chỉnh như Luật Dược ngày 14/6/2005, trong đó có quy định về thuốc đông y, Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân ngày 25/02/2003 quy định về hành nghề y, dược học cổ truyền.
4. Nội dung quy định về bảo vệ sức khoẻ người cao tuổi, thương binh, bệnh binh, người tàn tật và đồng bào các dân tộc thiểu số.
Toàn bộ các nội dung này đã được các luật, pháp lệnh khác điều chỉnh như nội dung về bảo vệ sức khoẻ người cao tuổi đã được quy định tại Pháp lệnh Người cao tuổi ngày 28/4/2000; về bảo vệ sức khoẻ thương binh, bệnh binh đã được quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng ngày 10/9/2004; về bảo vệ sức khoẻ người tàn tật đã được quy định tại Pháp lệnh người tàn tật ngày 30/7/1998, về bảo vệ sức khoẻ đồng bào các dân tộc thiểu số được quy định tại Pháp lệnh Dân số ngày 22/01/2003.
5. Nội dung quy định về thực hiện kế hoạch hoá gia đình và bảo vệ sức khoẻ phụ nữ, trẻ em.
Toàn bộ nội dung này đã được các luật, pháp lệnh khác điều chỉnh như nội dung về kế hoạch hoá gia đình đã được quy định trong Pháp lệnh Dân số ngày 22/01/2003, về bảo vệ sức khoẻ trẻ em đã được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 15/6/2004, về bảo vệ sức khoẻ phụ nữ được quy định trong Luật Bình đẳng giới ngày 29/11/2006.
6. Nội dung quy định về thể dục thể thao
Nội dung về thể dục thể thao đã được Luật Thể dục thể thao ngày 29/11/2006 quy định.
7. Nội dung quy định về khám bệnh và chữa bệnh.
Một số ít nội dung về khám bệnh, chữa bệnh đã được các luật, pháp lệnh khác ban hành như Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân ngày 25/02/2003 quy định về hành nghề y tư nhân, Bộ luật Dân sự quy định về mổ tử thi, Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác ngày 29/11/2006. Các nội dung còn lại đều quy định nguyên tắc và chưa đầy đủ, cụ thể.
Từ thực tế trên cho thấy việc đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh được ban hành từ năm 1989 đến nay để thu thập bằng chứng khoa học phục vụ cho việc xây dựng một luật riêng về khám bệnh, chữa bệnh – làm cơ sở xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
II. Mục đích của báo cáo:
1. Đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam về khám bệnh, chữa bệnh từ khi Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân được ban hành (1989) đến nay, trên cơ sở đó tìm ra những điểm còn hạn chế để khắc phục nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh mà trước mắt là đề xuất những nội dung cần đưa vào Dự án Luật khám bệnh, chữa bệnh.
2. Đánh giá pháp luật của một số nước trong khu vực và trên thế giới về khám bệnh, chữa bệnh, trên cơ sở đó lựa chọn những quy định phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam để đề xuất những nội dung có thể tham khảo và đưa vào Dự án Luật khám bệnh, chữa bệnh.
3. Đề xuất nội dung xây dựng Dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh trên cơ sở bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam, tính khả thi trong thực tiễn và phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội ở Việt Nam; bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế về khám bệnh, chữa bệnh.
III. Phạm vi đánh giá:
1. Về thời gian:
Công tác khám bệnh, chữa bệnh đã bước đầu đi vào hoạt động có nề nếp, trật tự kể từ khi Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân được ban hành (năm 1989, trong đó có một chương quy định về khám bệnh, chữa bệnh (Chương IV). Luật đã tạo cơ sở pháp lý hết sức quan trọng cho mọi hoạt động của ngành y tế, trong đó có hoạt động khám bệnh, chữa bệnh. Do đó, Báo cáo này lấy mốc thời gian từ năm 1989 đến nay làm thời hạn để thực hiện đánh giá.
2. Về không gian:
Hệ thống pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh bao gồm tất cả các văn bản quy phạm pháp luật do các cấp có thẩm quyền ban hành theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, phạm vi không gian của Báo cáo này là toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế, liên Bộ ban hành.
3. Về nội dung:
3.1. Báo cáo tập trung đánh giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp về khám bệnh, chữa bệnh, cụ thể là các văn bản quy định về điều kiện hành nghề và các văn bản quy định về chuyên môn, kỹ thuật y tế được ban hành từ năm 1989 đến nay. Các nội dung khác sẽ không được đánh giá vì các lý do sau:
a) Quy định các hệ thống tổ chức y tế, chế độ đối với cán bộ y tế:
Nội dung này đã được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh Cán bộ, công chức, Bộ luật Lao động… áp dụng các luật này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành và Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành các văn bản hướng dẫn mang tính đặc thù của ngành y tế.
b) Quy định về khoa học, đào tạo:
Nội dung này đã được quy định trong Luật Khoa học- Công nghệ ngày 09/6/2000 và Luật Giáo dục ngày 14/6/2005.
c) Quy định về viện phí và bảo hiểm y tế:
Vấn đề viện phí đã có cơ sở pháp luật là Pháp lệnh Phí và lệ phí, Chính phủ đã có Nghị định số 95/CP về thu một phần viện phí và sắp tới sẽ có sửa đổi theo hướng tính đúng, tính đủ các chi phí y tế. Vấn đề bảo hiểm y tế, trong bối cảnh từng bước thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân thì đã có Điều lệ bảo hiểm y tế ban hành kèm theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ và sắp tới Dự án Luật Bảo hiểm Y tế sẽ được Quốc hội xem xét để thông qua (Tháng 11-12/2008).
d) Quy định về chăm sóc sức khoẻ cho các đối tượng đặc biệt.
Toàn bộ nội dung này đã được các luật, pháp lệnh sau điều chỉnh: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định chăm sóc sức khoẻ đối với trẻ em, Pháp lệnh Dân số quy định chăm sóc sức khoẻ đối với bà mẹ, trẻ em và đồng bào các dân tộc thiểu số, Pháp lệnh Người cao tuổi quy định chăm sóc sức khoẻ đối với người cao tuổi, Pháp lệnh Người tàn tật quy định chăm sóc sức khoẻ đối với người tàn tật, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng quy định chăm sóc sức khoẻ đối với bà mẹ Việt Nam anh hùng và các đối tượng có công với nước, Luật Công an nhân dân, Luật Sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam quy định chăm sóc sức khoẻ đối với thương binh, bệnh binh và Luật Bình đẳng giới quy định chăm sóc sức khoẻ đối với phụ nữ.
áp dụng các luật này, Chính phủ, Thủ tướng Chính đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành và Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành các văn bản hướng dẫn mang tính đặc thù của ngành y tế.
đ) Về xử phạt vi phạm hành chính về khám bệnh, chữa bệnh:
Toàn bộ nội dung này đã được quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 được ban hành ngày 02/4/2008. Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày 6/4/2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
3.2. Đối với các văn bản pháp luật quốc tế thì lựa chọn pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh của một số nước trong khu vực và trên thế giới như: Thái Lan, Malaysia, Hoa Kỳ, úc…
IV. Phương pháp đánh giá:
1. Thống kê:
- Thu thập toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh của Việt Nam đã được ban hành từ năm 1989 đến nay; thu thập một số văn bản luật của các nước trong khu vực và trên thế giới về khám bệnh, chữa bệnh.
- Phân loại các văn bản đã thu thập được theo nhóm để phân tích và đánh giá.
2. Nghiên cứu hồi cứu (desk study):
Nghiên cứu toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về khám bệnh, chữa bệnh của Việt Nam và một số văn bản luật của các nước trong khu vực và trên thế giới; tiến hành phân tích, đánh giá, đề xuất và lựa chọn những quy định phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam để đưa vào Dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh.
3. Thảo luận nhóm, xin ý kiến của các chuyên gia pháp luật, chuyên gia y tế
Trong quá trình xây dựng báo cáo, phương pháp thảo luận nhóm được áp dụng để tập hợp các ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực có liên quan, các nhà quản lý, các chuyên gia pháp luật để phát huy tối đa trí tuệ của tập thể, kinh nghiệm, chất xám của các chuyên gia.
V. Đơn vị thực hiện:
1. Đơn vị chủ trì: Vụ Pháp chế
2. Đơn vị phối hợp:
Viện Chiến lược và Chính sách y tế
Một số Vụ, Cục và cơ quan có liên quan
Phần thứ hai
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH TỪ KHI LUẬT BẢO VỆ SỨC KHỎE NHÂN DÂN (CHƯƠNG IV – KHÁM BỆNH VÀ CHỮA BỆNH) ĐƯỢC BAN HÀNH TỪ NĂM 1989 ĐẾN NAY
I. phân loại Hệ thống pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh từ năm 1989 đến nay
Qua hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh từ năm 1989 đến nay cho thấy hiện có 250 văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực pháp luật và 84 văn bản đã hết hiệu lực pháp luật (có Danh mục đính kèm). Điều này cho thấy trong quá trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh, các quy định của pháp luật thường xuyên được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong công tác khám bệnh, chữa bệnh.
Để đánh giá được các ưu điểm và nhược điểm của hệ thống pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh, các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh được phân loại theo 4 tiêu chí, cụ thể như sau:
1. Phân loại theo nội dung:
Bảng 1. Số lượng và tỷ lệ văn bản quy phạm pháp luật theo nội dung
Nhận xét:
Qua bảng phân loại các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh theo nội dung cho thấy:
Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (Chương IV- Khám bệnh và chữa bệnh) đã quy định về quyền và trách nhiệm của người bệnh, trách nhiệm của thầy thuốc, điều, điều kiện hành nghề của thầy thuốc và quy định về chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh đã quy định về quyền và trách nhiệm của người bệnh. Trên cơ sở các quy định này của Luật, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành đã ban hành các văn bản hướng dẫn, trong đó các văn bản hướng dẫn về chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ cao nhất tới 47,6% (119 văn bản). Các văn bản đã quy định khá cụ thể những vấn đề chuyên môn, kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh như: Các quy trình kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh, quy định về y đức, chăm sóc người bệnh, quản lý chất thải, chống nhiễm khuẩn bệnh viện; cung ứng, quản lý và sử dụng thuốc chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; chế độ báo cáo, biểu mẫu báo cáo thống kê, hồ sơ bệnh án và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bệnh viện; quy định về tiêu chuẩn trang thiết bị, công trình y tế…Tuy nhiên, các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bệnh, trách nhiệm của thầy thuốc mới chỉ được đề cập chung chung, đặc biệt là chưa quy định cụ thể về quyền của thầy thuốc bên cạnh những trách nhiệm mà họ phải thực hiện đối với người bệnh. Việc cấp chứng chỉ hành nghề mới chỉ thực hiện được đối với người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong khu vực tư nhân theo quy định của Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân năm 2003 mà chưa có quy định cấp chứng chỉ hành nghề cho cả người hành nghề thuộc khu vực Nhà nước và tư nhân.
Bên cạnh đó, một số vấn đề hiện chưa được đề cập trong trong luật nhưng xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của công tác khám bệnh, chữa bệnh, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đã ban hành những văn bản dưới luật để điều chỉnh như: Vấn đề quản lý nhà nước đối với phương pháp chữa bệnh mới tại Việt Nam.
Qua phân tích trên cho thấy, vấn đề chuyên môn, kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh trong thời gian qua đã được chú trọng đặc biệt, từ đó càng thấy rõ vai trò và trách nhiệm của Nhà nước nói chung và của Bộ Y tế nói riêng trong công tác quản lý hoạt động khám bệnh, chữa bệnh.
Bên cạnh đó, các văn bản về quản lý hành nghề y tư nhân tuy không nhiều chỉ chiếm 3,2 % trong tổng số văn bản về khám bệnh, chữa bệnh nhưng các văn bản này điều chỉnh một loạt các vấn đề liên quan đến hành nghề y của khối y tế tư nhân. Các văn bản này chủ yếu quy định về hình thức hành nghề; điều kiện, thủ tục, thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề y tư nhân, trong đó cũng có đề cập đến điều kiện đối với người nước ngoài muốn hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam. Theo đó, những điều kiện đặt ra đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh thuộc khu vực tư nhân được quy định khá chặt chẽ.
Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, công tác khám bệnh, chữa bệnh cũng đã nẩy sinh nhiều vấn đề chưa được luật cũng như các văn bản quy phạm phạm pháp luật dưới luật điều chỉnh như: Vấn đề thừa nhận chứng chỉ hành nghề lẫn nhau giữa các nước; vấn đề bảo hiểm tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khám bệnh, chữa bệnh; vấn đề công nhận chất lượng đối với từng dịch vụ y tế, từng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; vấn đề giải quyết khiếu kiện của người bệnh liên quan đến hoạt động khám bệnh, chữa bệnh.
2. Phân loại theo hình thức văn bản:
Văn bản trong hệ thống pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh được thể hiện qua các hình thức sau đây: Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư, Thông tư liên bộ (Thông tư liên tịch).
Bảng 2. Phân loại các văn bản quy phạm pháp luật theo hình thức văn bản
Nhận xét:
Qua bảng phân loại các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh theo hình thức văn bản cho thấy phần lớn các hình thức văn bản được quy định trong Luật ban hành văn bản đều đã được sử dụng, điều này cho thấy lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh là một lĩnh vực chứa đựng những mối quan hệ hết sức đa dạng và nhạy cảm, được sự quan tâm của của nhiều cấp quản lý trong xã hội.
Hình thức văn bản Quyết định cấp Bộ được sử dụng nhiều nhất (39,2%) thể hiện tính chất phức tạp của công tác khám bệnh, chữa bệnh, đòi hỏi cấp quản lý nhà nước trực tiếp phải ban hành rất nhiều văn bản để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của mình.
Hình thức văn bản được ban hành nhiều thứ 2 đó là hình thức Thông tư liên lịch chiếm 16,8%, tiếp đó là hình thức văn bản Thông tư (13,6%) và Chỉ thị cấp Bộ (11,2%). Điều này chứng tỏ công tác khám bệnh, chữa bệnh mặc dù có tính chuyên ngành cao nhưng cũng như các công tác khác trong xã hội, công tác khám bệnh, chữa bệnh muốn đạt hiệu quả cao thì không thể thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành trong công tác quản lý nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh.
Hình thức văn bản như Nghị quyết của Chính phủ ít được sử dụng nhất do đây là văn bản mang tính định hướng của Chính phủ đối với các hoạt động của toàn ngành y tế nói chung và cho công tác khám bệnh, chữa bệnh nói riêng và căn cứ trên định hướng này cấp Bộ mới ban hành các văn bản đề triển khai thực hiện. Tiếp đó hình thức văn bản cũng có tỷ lệ sử dụng ít là Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, điều này cho thấy những vấn đề mới nảy sinh trong thực tế đòi hỏi phải được giải quyết ngay trong công tác khám bệnh, chữa bệnh đã được cấp Bộ ban hành theo thẩm quyền các văn bản để điều chỉnh nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát sinh trong thực tiễn quản lý nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh.
Tuy nhiên, các văn bản có nội dung quy định trực tiếp về công tác khám bệnh, chữa bệnh hầu hết được ban hành bằng hình thức văn bản dưới luật như: Pháp lệnh; Nghị định; Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị cấp Bộ; Thông tư và Thông tư liên tịch, trong đó phần lớn các văn bản là do cấp Bộ ban hành. Do vậy, hiệu lực pháp lý của các văn bản này chưa cao và mới tập trung chủ yếu về hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh. Nguyên nhân của hiện tượng này là do các quy định của luật (Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân- Quy định về khám bệnh, chữa bệnh) chỉ quy định mang tính nguyên tắc nên để triển khai thực hiện được trong thực tiễn nên đòi hỏi phải có rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Chính vì lý do trên, để nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy phạm pháp luật, cần xem xét để luật hóa các quy định của một số văn bản dưới luật theo hướng bảo đảm sự bình đẳng giữa khu vực y tế nhà nước và tư nhân như đang áp dụng đối với lĩnh vực dược hiện nay.
3. Phân loại theo thời gian ban hành văn bản :
Bảng 3. Phân loại các văn bản quy phạm pháp luật theo thời gian ban hành văn bản
Nhận xét:
Số lượng văn bản về khám bệnh, chữa bệnh được ban hành ngày càng tăng và bắt đầu tăng rõ rệt từ năm 1999 và tăng đột biến vào năm 2002 với số lượng văn bản được ban hành trong năm là 33 văn bản (chiếm 13,2% tổng số văn bản), trong đó văn bản về chuyên môn, kỹ thuật chiếm tới 20 văn bản. Nguyên nhân của hiện tượng này là vì ngày 19/3/2001 Chính phủ ban hành Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược quốc gia về bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001- 2010″ với mục tiêu “…mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; giảm tỷ lệ mắc bệnh…”, tiếp đó một loạt các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành điều chỉnh các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh nhằm đạt mục tiêu đã đặt ra. Ngoài ra, trước sự phát triển kinh tế và chuyển dịch mô hình bệnh tật, các bệnh dịch mới nguy hiểm xuất hiện trong thời gian gần đây như SARS, cúm A (H5N1), bệnh tiêu chảy cấp có phẩy khuẩn tả…đòi hỏi phải ban hành những phác đồ điều trị, quy trình kỹ thuật để giải quyết kịp thời.
Từ khi Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân được ban hành (năm 1989), y tế tư nhân đã được coi là một bộ phận cấu thành của hệ thống y tế và y tế tư nhân đã có những đóng góp đáng kể đối với công tác khám bệnh, chữa bệnh, cùng chia xẻ với y tế nhà nước trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Năm 2003, Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân được ban hành, từ đó đến nay đã có 2 văn bản được ban hành để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh. Ngoài 2 văn bản này, còn có 6 văn bản khác tuy không phải là văn bản trực tiếp hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh nhưng cũng quy định các vấn đề khác trong hành nghề y tư nhân như vấn đề về phí thẩm định tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề, cấp chứng chỉ hành nghề, chế độ tài chính khuyến khích đối với cơ sở y tế ngoài công lập… Bên cạnh việc phải tuân thủ các các văn bản quy định trực tiếp về hành nghề y tư nhân nêu trên, khu vực y tế tư nhân còn phải tuân thủ một loạt các văn bản QPPL về khám bệnh, chữa bệnh khác giống như khu vực y tế Nhà nước, đặc biệt là các văn bản quy định về chuyên môn, kỹ thuật y tế. Nghị quyết 46- NQ/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới đã khẳng định y tế tư nhân là một bộ phận cấu thành của hệ thống y tế, được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích phát triển. Điều đó chứng tỏ việc hành nghề y tư nhân ngày càng được chú trọng và đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân nói chung và công tác khám bệnh, chữa bệnh nói riêng.
4. Phân loại theo thẩm quyền ban hành:
Các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh được ban hành ở nhiều cấp có thẩm quyền như: Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Liên Bộ và Bộ.
Để tiện theo dõi, nhóm nghiên cứu đã xếp thành 4 nhóm thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau:
- Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội
- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
- Liên tịch (Liên Bộ)
- Bộ (bao gồm Bộ Y tế và các Bộ khác).
Bảng 4. Phân loại các văn bản quy phạm pháp luật ban hành theo thẩm quyền
Nhận xét:
Qua bảng phân loại các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh theo thẩm quyền ban hành cho thấy:
Trên cơ sở văn bản do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 41 văn bản (chiếm 16,4% trong tổng số các văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh) đã chứng tỏ Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác khám bệnh, chữa bệnh, coi công tác này không chỉ giới hạn trong phạm vi trách nhiệm của ngành y tế mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Các văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành chủ yếu là về chế độ đối với cán bộ y tế trong khám bệnh, chữa bệnh, đây là vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ do luật, pháp lệnh chuyên ngành quy định hoặc theo thẩm quyền quy định của Luật Tổ chức Chính phủ.
Trên cơ sở các văn bản của Chính phủ, cấp Bộ (cấp quản lý nhà nước trực tiếp) đã ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn thực hiện với số lượng khá lớn, chiếm tới 64 % tổng số văn bản.
Với nhiệm vụ là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác y tế nói chung và công tác khám bệnh, chữa bệnh nói riêng, Bộ Y tế đã thực hiện tốt chức năng của mình với việc ban hành 107 văn bản về chuyên môn kỹ thuật y tế, chiếm tới gần một nửa số văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh. Điều này cũng chứng tỏ công tác khám bệnh, chữa bệnh mang tính chuyên ngành cao nên đòi hỏi phải ban hành nhiều văn bản hướng dẫn về chuyên môn, kỹ thuật. Ngoài ra, vấn đề khám, chữa bệnh còn là vấn đề khá nhạy cảm, nhiều vấn đề phát sinh trên thực tế khám, chữa bệnh nên đòi hỏi phải liên tục sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn về chuyên môn, kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Sự phối hợp liên ngành trong quản lý nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh đã được thực hiện khá chặt chẽ thể hiện qua việc đã ban hành được 42 văn bản liên tịch (chiếm 16,8%) tổng số văn bản QPPL về khám bệnh, chữa bệnh.
II. Đánh giá chung về Hệ thống pháp luật việt nam về khám bệnh, chữa bệnh:
1. ưu điểm:
a) Khẳng định quyền và nghĩa vụ của người bệnh trong khám bệnh, chữa bệnh, quyền và nghĩa vụ của thầy thuốc, nhân viên y tế đối với người bệnh, tạo cơ sở pháp lý cho thầy thuốc và nhân viên y tế khi hành nghề thực hiện đúng chức trách, bổn phận của mình trong khám, điều trị cho người bệnh.
b) Các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác quản lý, cung ứng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với hệ thống y tế khu vực công và tư đã từng bước được ban hành mới, sửa đổi và bổ sung tương đối đầy đủ, tác động, điều chỉnh nhiều mặt của công tác khám bệnh, chữa bệnh, giải quyết được những vấn đề cấp bách nảy sinh trong thực tiễn liên quan đến công tác khám bệnh, chữa bệnh, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, làm cơ sở chi phối và hỗ trợ cho công tác quản lý nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh ở tất cả các cấp.
c) Các văn bản hướng dẫn đã bước đầu đáp ứng với xu hướng phát triển của hoạt động cung ứng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh ngày càng đa dạng, nhiều hình thức sở hữu và tăng nhanh về số lượng, tạo cơ chế thuận lợi để phát huy, tập hợp được các nguồn lực trong xã hội tham gia vào công tác khám bệnh, chữa bệnh, đáp ứng và thể chế hoá các đường lối, chủ trương của Đảng về xã hội hoá công tác y tế và đổi mới cơ chế quản lý về y tế.
d) Xu hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính phù hợp với cải cách hành chính nhà nước hiện nay đã được chú trọng, xu hướng quản lý bằng cách cấp phép, cho phép đã từng bước được thay thế bằng cách quy định các điều kiện cụ thể hành nghề, sau đó hậu kiểm. Ví dụ như đối với hành nghề massage, kinh doanh trang thiết bị y tế. Bên cạnh đó, một số thủ tục như chế độ nhập viện, ra viện cũng đã được đơn giản hóa tạo điều kiện thuận lợi cho người bệnh trong khám bệnh, chữa bệnh.
đ) Các văn bản quy định về chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh đã bao quát được phần lớn các vấn đề như: Chế độ trực, cấp cứu, ra vào viện, chăm sóc người bệnh toàn diện, chẩn đoán bệnh, kê đơn thuốc điều trị và làm hồ sơ bệnh án, sử dụng thuốc trong bệnh viện, điều trị ngoại trú, hội chẩn, chống nhiễm khuẩn bệnh viện, xử lý chất thải y tế, phẫu thuật, thủ thuật, bắt buộc chữa bệnh.
e) Hệ thống các văn bản QPPL về khám bệnh, chữa bệnh trong thời gian qua về cơ bản đã bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam. Hệ thống văn bản này đã thực sự đi vào cuộc sống và đã trở thành công cụ hữu hiệu trong việc quản lý nhà nước về y tế.
2. Nhược điểm:
a) Mặc dù các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bệnh, quyền và nghĩa vụ của thầy thuốc và nhân viên y tế đã được pháp luật đề cập, nhưng các quy định trong luật còn chung chung, đặc biệt là quy định về nghĩa vụ của thầy thuốc mới chỉ quy định theo hướng nghĩa vụ đối với bệnh nhân, ngoài ra còn những nghĩa vụ khác mà người thầy thuốc phải thực hiện như: Nghĩa vụ đối với nghề nghiệp, nghĩa vụ đối với xã hội… thì chưa được đề cập. Ngoài ra, bên cạnh một loạt những trách nhiệm phải thực hiện trong hành nghề, người thầy thuốc rất cần được hưởng những quyền lợi chính đáng. Một điều không thể không đề cập đến, đó là nghề y rất dễ bị tai nạn về nghề nghiệp, trong quá trình hành nghề, thầy thuốc nào cũng có thể mắc lỗi, sai sót trong kỹ thuật, nên họ có quyền được bảo vệ, đặc biệt cần được bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề này hiện nay cũng chưa được pháp luật quy định cụ thể.
b) Các văn bản ban hành vẫn còn những điểm chưa theo kịp tốc độ phát triển, thay đổi của những vấn đề nảy sinh trong hoạt động cung ứng dịch vụ KCB của ngành y tế, đặc biệt trong khu vực y tế tư nhân đang phát triển mạnh theo xu hướng đa dạng hoá các thành phần kinh tế. Với các quy định về điều kiện hành nghề hiện nay thì khó có thể quản lý và nâng cao trình độ chuyên môn cho người hành nghề được. Nhìn chung chưa có một hệ thống phù hợp để quản lý khu vực y tế tư nhân, cụ thể là quản lý hành nghề y. Tuy đã phân cấp, nhưng Sở Y tế với nguồn lực còn hạn chế, rất khó thực thi được trách nhiệm quản lý, giám sát và cấp chứng chỉ hành nghề cho các cơ sở y tế tư nhân đang rất phân tán và thiếu tổ chức như hiện nay. Trong khi đó vai trò của các tổ chức xã hội nghề Hội nghề nghiệp tham gia vào công tác quản lý nhà nước còn hạn chế. Do vậy, bên cạnh việc Nhà nước vẫn giữ vai trò quản lý, định hướng hoạt động thì cần thiết phải có biện pháp để huy động sự tham gia và phát huy tiềm năng to lớn của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp trong lĩnh vực y tế nói chung và y tế tư nhân nói riêng.
c) Tính khả thi, tính dự báo của một số văn bản hoặc quy định trong từng văn bản chưa cao hoặc thực tế chưa phát triển đến mức cần có sự điều chỉnh nên sau một thời gian thực hiện đã nảy sinh một số bất cập nhất định mà chưa thể sửa đổi, bổ sung cho phù hợp ngay được. Ví dụ như Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân ngày 30/6/1989 đã quy định việc cấp giấy phép hành nghề của thầy thuốc trong khu vực Nhà nước, tập thể, tư nhân (Điều 24). Tuy nhiên, đến nay quy định này mới chỉ được thực hiện một phần, đó là việc mới chỉ triển khai việc cấp chứng chỉ hành nghề cho người đứng đầu cơ sở y tế tư nhân theo Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân ngày 25/02/2003 chứ chưa được triển khai thực hiện trong khu vực y tế Nhà nước, chưa triển khai cụ thể đối với từng người hành nghề, tạo sự thiếu công bằng trong hành nghề giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, quy định chữa bệnh bắt buộc đối với người mắc bệnh tâm thần thể nặng, bệnh lao, phong đang thời kỳ lây truyền, bệnh nghiện ma tuý, bệnh SIDA…(Điều 29) nhưng thực tế cũng chưa có cơ chế pháp luật hướng dẫn cụ thể và thực tế cũng không có đủ thuốc, kinh phí xét nghiệm để điều trị cho các đối tượng này. Nguyên nhân của tình trạng này là do khi xây dựng pháp luật thiếu sự nghiên cứu, đánh giá tác động của các điều luật này đối với kinh tế – xã hội, cũng như các điều kiện bảo đảm thực hiện. Do vậy, mặc dù các quy định của luật đã được ban hành nhưng không có tính khả thi trong thực tiễn.
d) Hiện nay quản lý chất thải đang là vấn đề nổi cộm của ngành. Các tồn tại là: Quy định phân loại và tiêu hủy rác thải bệnh viện còn nhiều điểm chưa hợp lý. Không phải tất cả rác thải đều độc hại và nguy hiểm. Việc tiêu hủy tất cả rác thải tốn kém cho bộ máy vận hành, tốn kém kinh phí và gây ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, có rác thải vẫn có thể tận dụng để tái chế. Tuy nhiên, hiện vấn đề này mới chỉ được quy định ở văn bản dưới luật nên hiệu lực pháp lý chưa đủ mạnh để giải quyết.
đ) Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, nhiều phương pháp điều trị, kỹ thuật y tế mới đã được áp dụng như ghép gan, ghép thận, ghép tế bào gốc, phẫu thuật tim hở, nối mạch máu, phẫu thuật Pharco, thụ tinh trong ống nghiệm, tán sỏi ngoài cơ thể, nội soi can thiệp. Tuy nhiên, việc ứng dụng, chuyển giao công nghệ các kỹ thuật tiên tiến này ở Việt Nam lại chưa có quy định cụ thể.
e) Trong tình hình mới hiện nay, vấn đề kiểm định và nâng cao chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh cũng đang là vấn đề rất đáng được chú trọng. Tuy nhiên, hiện chưa xây dựng được hệ thống cũng như tiêu chí để kiểm soát và đánh giá chất lượng dịch vụ y tế tại cơ sở y tế, tình trạng vượt tuyến điều trị còn khá phổ biến. Bên cạnh đó, vấn đề đặt ra cần phải giải quyết là phải có biện pháp gì để duy trì và bảo đảm tính ổn định về mặt chất lượng đối với từng dịch vụ cũng như từng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, tạo điều kiện cho người dân có khả năng lựa chọn dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh có chất lượng. Chính vì vậy, cần phải có những quy định pháp luật đủ mạnh mới có thể giải quyết được vấn đề này.
g) Cùng một vấn đề nhưng quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh dẫn đến việc triển khai thực gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi một vấn đề nhưng phải tra cứu nhiều văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện. Ví dụ, lĩnh vực hành nghề y tư nhân, ngoài Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân, người hành nghề còn phải thực hiện các luật, pháp lệnh khác như Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp…
h) Hệ thống pháp luật về y tế không nằm ngoài hệ thống pháp luật Việt Nam nên đều có hạn chế chung là luật, pháp lệnh phần lớn đều quy định mang tính nguyên tắc (thường đượcgọi là luật khung, luật ống), muốn thực hiện được phải có nhiều VBQPPL hướng dẫn thi hành làm cho hiệu lực tức thì của luật, pháp lệnh chưa thể thực hiện ngay được, trong khi thời gian chờ ban hành văn bản hướng dẫn lại lâu. Ví dụ: Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân được ban hành năm 1989, nhưng để hướng dẫn thực hiện các quy định về khám bệnh, chữa bệnh đã có rất nhiều các văn bản dưới luật được ban hành trong những năm tiếp theo.
III. Đánh giá hệ thống pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh theo từng nhóm vấn đề:
1. Nhóm quyền và nghĩa vụ của người bệnh:
1.1. Quy định hiện hành:
1.1.1. Về quyền của người bệnh: Điều 23- Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân quy định về quyền được khám bệnh và chữa bệnh như sau:
” 1. Mọi người khi ốm đau, bệnh tật, bị tai nạn được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở nơi công dân cư trú, lao động, học tập.
Người bệnh còn được chọn thầy thuốc hoặc lương y, chọn cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và ra nước ngoài để khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Hội đồng bộ trưởng.
2. Trong trường hợp cấp cứu, người bệnh được cấp cứu tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào. Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải tiếp nhận và xử trí mọi trường hợp cấp cứu.”
1.1.2. Trách nhiệm của người bệnh: Điều 27- Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân quy định:
” 1. Người bệnh có trách nhiệm tôn trọng thầy thuốc và nhân viên y tế; chấp hành những quy định trong khám bệnh, chữa bệnh.
2. Người bệnh phải trả một phần chi phí y tế. Hội đồng Bộ trưởng quy định chế độ thu phí y tế.”
1.2. Những phát hiện:
- Các quy định về quyền của người bệnh còn chung chung, chưa thể hiện được những quyền lợi thiết thực của người người bệnh trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh hay nói cách khác là quyền của người bệnh chưa được thể hiện đầy đủ theo hướng tiếp cận quyền.
- Các quy định về quyền của người bệnh mới chỉ thiên về việc lựa chọn cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và thầy thuốc (trên thực tế quyền lựa chọn thầy thuốc cũng không khả thi) chứ chưa thể hiện được quyền nhân thân mà họ đáng được hưởng như: Quyền quyết định những vấn đề về khám bệnh, chữa bệnh liên quan đến bản thân; quyền được tôn trọng bí mật riêng tư; quyền được tôn trọng nhân phẩm; quyền được từ chối chữa bệnh…
- Trong tình hình mới hiện nay, với sự phát triển kinh tế- xã hội, người dân có quyền được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng- đây cũng là nhu cầu hết sức chính đáng.
2. Nhóm quyền và nghĩa vụ của thầy thuốc:
2.1. Quy định hiện hành:
2.1.1. Về nghĩa vụ của thầy thuốc:Điều 25- Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân quy định như sau:
“1. Thầy thuốc có nghĩa vụ khám bệnh, chữa bệnh, kê đơn và hướng dẫn cách phòng bệnh, tự chữa bệnh cho người bệnh; phải giữ bí mật về những điều có liên quan đến bệnh tật hoặc đời tư mà mình được biết về người bệnh.
2. Thầy thuốc phải có y đức, có tinh thần trách nhiệm, tận tình cứu chữa người bệnh: Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật y tế; chỉ sử dụng những phương pháp, phương tiện, dược phẩm được Bộ Y tế cho phép.
3. Nghiêm cấm hành vi vô trách nhiệm trong cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh làm tổn hại đến sức khỏe tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người bệnh.”
2.1.2. Về quyền hạn của thầy thuốc: Điều 26- Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân quy định về giúp đỡ bảo vệ thầy thuốc và nhân viên y tế như sau:
“1. Mọi tổ chức và công dân có trách nhiệm giúp đỡ, bảo vệ thầy thuốc và nhân viên y tế khi họ làm nhiệm vụ.
2. Trong trường hợp khẩn cấp để đưa người bệnh hay người bị tai nạn đến cơ sỏ cấp cứu, thầy thuốc, nhân viên y tế được quyền sử dụng các phương tiện vận chuyển có mặt tại chỗ. Người điều khiển phương tiện phải thực hiện yêu cầu của thầy thuốc và nhân viên y tế.
3. Nghiêm cấm hành vi làm tổn hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của thầy thuốc, nhân viên y tế trong khi đang làm nhiệm vụ“.
2.2. Những phát hiện:
- Các quy định của pháp luật cũng có đề cập đến các quyền của thầy thuốc. Tuy nhiên, các quy định này còn mờ nhạt, chưa thể hiện được hết những quyền lợi chính đáng mà người thầy thuốc có quyền được hưởng bên cạnh những trách nhiệm tuy cao quý nhưng hết sức nặng nề mà họ phải thực hiện đối với người bệnh. Quyền được bảo vệ trong khi làm nhiệm vụ tuy cũng đã được đề cập đến một cách gián tiếp nhưng cũng chưa được quy định rõ ràng theo hướng tiếp cận quyền. Đặc biệt là vấn đề cần được bảo vệ khi xảy ra tai nạn nghề nghiệp đối với thầy thuốc và nhân viên y tế cũng chưa được pháp luật đề cập nên dẫn đến tình trạng khiếu kiện xảy ra nhiều trong khi đó thủ tục và trình tự giải quyết các khiếu kiện này cũng chưa được quy định cụ thể.
- Các quy định về nghĩa vụ của thầy thuốc, nhân viên y tế tuy đã được đề cập nhưng còn khá sơ sài, chưa thể hiện được cụ thể, rõ ràng về nghĩa vụ của người thầy thuốc đối với từng nhóm đối tượng khác nhau mà họ phải tiếp xúc trực tiếp trong quá trình hành nghề và thông qua đó tính chất nghề nghiệp được giữ gìn và bảo vệ như: Người bệnh, nghề nghiệp, đồng nghiệp và xã hội.
3. Nhóm quyền và nghĩa vụ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
3.1. Quy định của pháp luật hiện hành:
- Khoản 2, Điều 23- Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân có quy định:
” Trong trường hợp cấp cứu, người bệnh được cấp cứu tại bất bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào. Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải tiếp nhận và xử trí mọi trường hợp cấp cứu “.
- Tiếp đó, tại Điều 3- Điều lệ Khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng được ban hành kèm theo Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 23- HĐBT ngày 24 tháng 01 năm 1991 đã cụ thể hóa các nghĩa vụ này như sau :
” 1. Trường hợp cấp cứu, người bệnh được cấp cứu tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào.
2. Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải:
- Nhanh chóng tiếp nhận người bệnh, người bị nạn.
- Huy động tối đa nhân lực, thuốc men, trang bị kỹ thuật để cấp cứu. Nếu vượt khả năng, sau khi đã sơ cứu người bệnh, người bị nạn tương đối ổn định phải đưa người bệnh, người bị nạn lên tuyến trên.
- Trong trường hợp thiên tai, địch họa hoặc nghi ngờ bệnh dịch, bị đầu độc,… dẫn đến cấp cứu hàng loạt phải tìm mọi cách báo cáo khẩn cấp lên cấp trên để chỉ đạo kịp thời.”
3.2. Những phát hiện:
- Quy định hiện hành mới đề cập đến nghĩa vụ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và các nghĩa vụ cũng chỉ được quy định bó hẹp trong trường hợp cấp cứu người bệnh, còn các nghĩa vụ khác mà bất cứ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào cũng phải thực hiện thì lại chưa được đề cập đó là: Tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh, tổ chức thực hiện các quy định về chuyên môn kỹ thuật y tế, bảo đảm các điều kiện tối thiểu cho người hành nghề trong cơ sở thực hiện các nhiệm vụ trong phạm vi chuyên môn được phép, chấp hành sự huy động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong các trường hợp có thảm họa lớn hoặc dịch bệnh nguy hiểm .
- Quyền và trách nhiệm luôn có mối quan hệ chặt chẽ và không thể tách rời. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa thấy đề cập đến quyền mà cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện như: Thực hiện các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Luật, từ chối khám bệnh, chữa bệnh trong trường hợp vượt quá khả năng, thu phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật, được hưởng chế độ ưu đãi khi thực hiện các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
4. Nhóm quy định về hình thức tổ chức và điều kiện hành nghề của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
4.1. Quy định của pháp luật hiện hành:
Pháp luật về hành nghề y tư nhân mà trước tiên là Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân năm 2003 đã quy định khá rõ về hình thức tổ chức hành nghề y tư nhân tại Điều 16 bao gồm các hình thức sau:
“- Bệnh viện đa khoa, chuyên khoa
- Phòng khám đa khoa, phòng khám chuyên khoa
- Nhà hộ sinh
- Cơ sở dịch vụ y tế
- Cơ sở dịch vụ vận chuyển người bệnh trong nước và ra nước ngoài”
Đồng thời, tại Điều 13 của Pháp lệnh đã giao cho “Bộ Y tế quy định cụ thể về điều kiện, phạm vi chuyên môn hành nghề đối với từng hình thức tổ chức hành nghề… ” này.
4.2. Những phát hiện:
- Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định về các hình thức tổ chức hành nghề y tư nhân và điều kiện, phạm vi hành nghề đối với từng hình thức tổ chức hành nghề đó mà chưa có những quy định cụ thể về hình thức tổ chức và điều kiện hành nghề của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước. Chính vì vậy, các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước muốn hoạt động được thì chỉ cần có Quyết định thành lập của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà không cần phải có Giấy phép hoạt động. Điều này đã gây nên sự thiếu công bằng giữa khu vực y tế Nhà nước và khu vực y tế tư nhân trong thực hiện các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh mặc dù đều hoạt động vì một mục đích chung là chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
- Tuy nhiên, để khẳng định được chất lượng khám bệnh, chữa bệnh của một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh mà chỉ căn cứ vào những điều kiện hành nghề của cơ sở đó thì cũng chưa lượng hóa được chất lượng dịch vụ mà cơ sở đó cung cấp, điều quan trọng là phải thiết lập và duy trì hệ thống quản lý chất lượng phù hợp.
5. Nhóm quy định về hình thức hành nghề và điều kiện hành nghề đối với cá nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
5.1. Quy định của pháp luật hiện hành:
- Khoản 1, Điều 4 Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân năm 2003 quy định:
” Người đứng đầu cơ sở y, y dược học cổ truyền, dược, vắc xin, sinh phẩm y tế phải có Chứng chỉ hành nghề y, dược tư nhân. Đối với doanh nghiệp kinh doanh dược, doanh nghiệp kinh doanh vắc xin, sinh phẩm y tế thì người đứng đầu hoặc người quản lý chuyên môn của doanh nghiệp phải có Chứng chỉ hành nghề y, dược tư nhân “.
- Điều 9- Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân năm 2003 quy định về điều kiện chung đối với người hành nghề y, dược tư nhân:
“Người được cấp Chứng chỉ hành nghề y, y dược học cổ truyền, dược, vắc xin, sinh phẩm y tế tư nhân phải có đủ các điều kiện sau đây:
1. Có bằng cấp phù hợp với hình thức tổ chức và phạm vi chuyên môn hành nghề;
2. Đã có thời gian thực hành tại cơ sở y, dược;
3. Có đạo đức nghề nghiệp;
4. Có đủ sức khỏe để hành nghề;
5. Có đủ các điều kiện khác theo quy định tại các điều 17, 22, 27 và 31 của Pháp lệnh này tùy theo từng hình thức tổ chức hành nghề;
6. Không thuộc đối tượng quy định tại Điều 6 của Pháp lệnh này.”
- Điều 17- Pháp lệnh Hành nghề y dược tư nhân năm 2003 quy định điều kiện đối với người được cấp chứng chỉ hành nghề y tư nhân như sau:
“Người được cấp Chứng chỉ hành nghề y tư nhân phải có đủ các điều kiện sau đây:
1. Các điều kiện quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh này;
2. Có một trong các bằng cấp sau đây tùy theo yêu cầu của từng hình thức tổ chức hành nghề và phạm vi chuyên môn hành nghề:
a) Bằng tốt nghiệp đại học y, đại học dược, đại học chuyên ngành về sinh học, hoá học;
b) Bằng tốt nghiệp cao đẳng y;
c) Bằng tốt nghiệp trung học y;
3. Đã qua thực hành 5 năm đối với hình thức tổ chức hành nghề quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 16 của Pháp lệnh này tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; 2 năm đối với hình thức tổ chức hành nghề quy định tại khoản 4 Điều 16 của Pháp lệnh này tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.”
- Điều 39- Pháp lệnh HNYDTN năm 2003 quy định về thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề y tư nhân như sau:
” 1. Bộ trưởng Bộ Y tế cấp Chứng chỉ hành nghề y, y dược học cổ truyền, dược, vắc xin, sinh phẩm y tế tư nhân cho cá nhân đăng ký theo các hình thức tổ chức hành nghề sau đây:
a) Bệnh viện;
b) Cơ sở y, y dược học cổ truyền, dược, vắc xin, sinh phẩm y tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2. Giám đốc Sở Y tế cấp Chứng chỉ hành nghề y, y dược học cổ truyền, dược và vắc xin, sinh phẩm y tế tư nhân cho các cá nhân đăng ký các hình thức tổ chức hành nghề khác, trừ các hình thức tổ chức hành nghề quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp pháp, Bộ trưởng Bộ Y tế hoặc Giám đốc Sở Y tế phải cấp Chứng chỉ hành nghề; nếu không cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
4. Chứng chỉ hành nghề do Bộ trưởng Bộ Y tế cấp có giá trị đăng ký hành nghề trong phạm vi cả nước.
Chứng chỉ hành nghề do Giám đốc Sở Y tế cấp có giá trị đăng ký hành nghề trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi cấp chứng chỉ; trường hợp chuyển địa điểm hành nghề sang tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác thực hiện theo quy định của Bộ Y tế.”
- Đối với người nước ngoài hành nghề y tại Việt Nam:
+ Điều 1- Pháp lệnh HNYDTN năm 2003 quy định:
“1. Cá nhân, tổ chức nước ngoài hành nghề y, dược tư nhân tại Việt Nam phải theo quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và quy định của Pháp lệnh này.
2. Người nước ngoài làm công việc chuyên môn trong các cơ sở y, y dược học cổ truyền tư nhân phải được Bộ Y tế Việt Nam cho phép.
3. Người nước ngoài trực tiếp khám bệnh, chữa bệnh cho người Việt Nam phải biết tiếng Việt thành thạo hoặc phải có người phiên dịch. Người phiên dịch phải có trình độ trung cấp trở lên về y; đối với y dược học cổ truyền thì người phiên dịch phải là lương y hoặc có trình độ trung cấp y học cổ truyền trở lên.
4. Bộ Y tế quy định cụ thể về việc hành nghề y, dược tư nhân của cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.”
+ Điều 20 – Nghị định 103/2003/NĐ-CP ngày 12/9/2003 quy định:
” Bộ Y tế cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề y, dược tư nhân cho cá nhân, tổ chức nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài nếu có đủ các điều kiện sau:
1. Có nhu cầu và đáp ứng được nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của người Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam.
2. Có đầy đủ điều kiện về địa điểm, trang thiết bị y tế và các điều kiện cần thiết khác theo quy định của Bộ Y tế.
3. Người đứng đầu cơ sở khám, chữa bệnh có vốn đầu tư nước ngoài, người đứng đầu hoặc người quản lý chuyên môn của doanh nghiệp kinh doanh dược, kinh doanh vắc xin, sinh phẩm y tế phải có đủ điều kiện và được Bộ Y tế Việt Nam cấp Chứng chỉ hành nghề theo quy định của Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân và Nghị định này.”
+ Điều 21- Nghị định 103/2003/NĐ- CP ngày 12/9/2003 quy định:
” 1. Cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài làm công việc chuyên môn trong các cơ sở y, y dược học cổ truyền tư nhân quy định tại khoản 2 Điều 14 Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân được Bộ Y tế Việt Nam cấp giấy phép nếu có đủ các điều kiện sau:
a) Có văn bằng chuyên môn hợp pháp do nước sở tại cấp;
b) Có Chứng chỉ hành nghề hợp pháp hoặc Giấy xác nhận đã hành nghề trên 03 năm (tính đến thời điểm xin cấp phép) do nước sở tại cấp;
c) Có đủ sức khỏe để hành nghề theo quy định;
d) Có lý lịch tư pháp được cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại xác nhận mà không thuộc đối tượng quy định tại Điều 6 của Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân;
đ) Có Giấy phép lao động do cơ quan quản lý nhà nước về lao động của Việt Nam cấp.
2. Tuỳ theo tình hình thực tế, Bộ Y tế quy định cụ thể các lĩnh vực ưu tiên hoặc hạn chế người nước ngoài hành nghề y, dược tại Việt Nam. ”
+ Điều 22- Nghị định 103/2003/NĐ- CP ngày 12/9/2003 quy định:
“1. Người nước ngoài trực tiếp khám, chữa bệnh cho người bệnh phải biết tiếng Việt Nam thành thạo hoặc phải có người phiên dịch. Việc kê đơn thuốc bắt buộc phải ghi bằng tiếng Việt và ngôn ngữ của người nước ngoài trực tiếp khám bệnh và kê đơn.
2. Người phiên dịch quy định tại khoản 3 Điều 14 của Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân phải có đủ các điều kiện sau:
a) Có bằng tốt nghiệp trung học y, trung học y dược học cổ truyền trở lên hoặc lương y;
b) Có bằng tốt nghiệp đại học ngoại ngữ phù hợp với ngôn ngữ của người nước ngoài trực tiếp khám, chữa bệnh sử dụng.
3. Đối với cơ sở hành nghề y tư nhân, y học cổ truyền tư nhân, nếu hiện tại chưa đáp ứng điều kiện theo quy định tại điểm b khoản 2 của Điều này thì Giám đốc hoặc người đứng đầu cơ sở đó được phép sử dụng người phiên dịch có Chứng chỉ ngoại ngữ bằng C trở lên cho đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2007. Giám đốc hoặc người đứng đầu cơ sở phải chịu trách nhiệm về trình độ chuyên môn của người phiên dịch đó.”
5.2. Những phát hiện:
- Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định cấp chứng chỉ hành nghề cho người đứng đầu cơ sở y tế tư nhân, còn đối với những người làm công việc chuyên môn trong cơ sở đó thì lại không quy định (trừ trường hợp đó là người nước ngoài hành nghề tại Việt Nam). Ngoài ra, hiện cũng chưa có quy định cụ thể về cấp chứng chỉ hành nghề cho người hành nghề trong cơ sở y tế nhà nước. Thực tế cho thấy cá nhân hành nghề trong khu vực nhà nước chỉ cần có bằng tốt nghiệp y khoa ở các trường đại học hoặc trung học là có thể hành nghề tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước mà không cần phải có chứng chỉ hành nghề. Như vậy là đối với khu vực y tế nhà nước, việc quản lý hành nghề còn chưa chặt chẽ và nguyên nhân của việc này chính là chưa có các quy định cụ thể, rõ ràng của pháp luật đối với người hành nghề y trong khu vực Nhà nước.
- Quy định về thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề: Mặc dù đã có sự phân cấp trong việc cấp chứng chỉ hành nghề nhằm thực hiện cải cách hành chính, nhưng cũng dẫn đến mặt hạn chế khi phân cấp cho Sở y tế thực hiện việc cấp chứng chỉ đối với các cơ sở y tế tư nhân (trừ Bệnh viện và cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài), đó là Chứng chỉ hành nghề chỉ có giá trị hành nghề trong phạm vi tỉnh đó và khi chuyển địa điểm hành nghề sang tỉnh khác thì lại phải làm các thủ tục cấp đổi chứng chỉ mới.
- Việc cấp chứng chỉ hành nghề chỉ dựa trên việc xem xét Hồ sơ mà không tổ chức kiểm tra lý thuyết và thực hành nên thực chất của việc cấp chứng chỉ hành nghề chủ yếu mang tính hình thức.
- Hiện cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề y tư nhân là Bộ Y tế và Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, với nguồn lực còn nhiều hạn chế, 2 cơ quan này cũng gặp nhiều khó khăn trong thực hiện trách nhiệm quản lý, giám sát và cấp chứng chỉ hành nghề cho các cơ sở y tế tư nhân đang ngày càng phát triển. Bên cạnh đó còn một số lượng lớn những người hành nghề trong khu vực y tế nhà nước hiện nay cũng chưa được quản lý chặt chẽ. Xuất phát từ thực tiễn đó, để bảo đảm sự công bằng giữa khu vực y tế tư nhân và khu vực y tế Nhà nước trong hành nghề y, đòi hỏi phải thiết lập một bộ máy thích hợp để thực hiện việc cấp chứng cho cho mọi người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
- Về cấp chứng chỉ hành nghề đối với người nước ngoài thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam: Pháp luật hiện hành cũng đã đưa ra các quy định về điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề, tuy nhiên việc cấp chứng chỉ này hiện cũng còn mang tính hình thức là chỉ dựa trên việc xem xét hồ sơ chứ chưa qua tổ chức thi kiểm tra lý thuyết và thực hành. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định việc thừa nhận chứng chỉ hành nghề lẫn nhau giữa các nước- một vấn đề đang rất cần có quy định cụ thể của pháp luật đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập.
- Các quy định về điều kiện đối với người phiên dịch cho người nước ngoài hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam đặt ra còn chưa phù hợp với thực tiễn bởi không nhất thiết họ phải có bằng Đại học ngoại ngữ và một số bằng cấp, chứng chỉ về chuyên môn y tế thì mới đáp ứng được công việc phiên dịch và thực tế cũng cho thấy rất khó tìm được những người đáp ứng được các tiêu chuẩn này. Ngoài ra, quy định hiện hành cũng chưa đặt ra các quy định về việc người phiên dịch trước khi thực hiện công việc của mình tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì ngoài việc xem xét văn bằng, chứng chỉ của họ thì phải được kiểm tra khả năng, trình độ thực tế. Do vậy việc xét duyệt thực chất cũng là mang tính hình hình thức.
6. Nhóm quy định chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh:
6.1. Quy định của pháp luật hiện hành:
- Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân:
+ Tại Điều 28 quy định về chữa bệnh bằng phẫu thuật như sau:
“Thầy thuốc chỉ tiến hành phẫu thuật sau khi được sự đồng ý của người bệnh. Đối với người bệnh chưa thành niên, người bệnh đang bị hôn mê hay mắc bệnh tâm thần thì phải được sự đồng ý của thân nhân hoặc người giám hộ của người bệnh. Trong trường hợp mà thân nhân hay người giám hộ của người bệnh không đồng ý hoặc thâm nhân hay người giám hộ vắng mặt, nếu không kịp thời phẫu thuật có thể nguy hại đến tính mạng người bệnh, thì thầy thuốc được quyền quyết định, nhưng phải có sự phê chuẩn của người phụ trách hạy người được ủy quyền của cơ sở y tế đó.”
+ Điều 29 quy định về bắt buộc chữa bệnh như sau:
“1. Các cơ sở y tế phải tiến hành các biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người mắc bệnh tâm thần thể nặng, bệnh lao, phong đang thời kỳ lây truyền, bệnh lây truyền qua đường sinh dục, bệnh nghiệm ma túy, bệnh SIDA và một số bệnh truyền nhiễm khác có thể gay nguy hại cho xã hội.
2. Việc bắt buộc chữa bệnh tại các cơ sở y tế phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.”
- Quy chế Bệnh viện được ban hành kèm theo Quyết định số 1895/1997/BYT- QĐ ngày 19/9/1997 đã quy định các quy chế chuyên môn như: Quy chế thường trực; Quy chế cấp cứu; Quy chế chẩn đoán bệnh, làm hồ sơ bệnh án và kê đơn điều trị; Quy chế vào viện, chuyển khoa, chuyển viện và ra viện; Quy chế điều trị ngoại trú; Quy chế khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu; Quy chế hội chẩn; Quy chế sử dụng thuốc; Quy chế công tác chăm sóc người bệnh toàn diện; Quy chế Chống nhiễm khuẩn; Quy chế xử lý chất thải; Quy chế xử lý đối với người bệnh không có người nhận; Quy chế giải quyết người bệnh tử vong; bắt buộc chữa bệnh.
6.2. Những phát hiện:
- Phần lớn các vấn đề chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh (trừ vấn đề chữa bệnh bằng phẫu thuật và bắt buộc chữa bệnh) đều do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành nên nên hiệu lực pháp lý của các quy định này chưa cao vì không có cơ sở pháp lý để ban hành.
- Phần lớn các vấn đề chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh mới chỉ được quy định đối với bệnh viện, còn đối với các hình thức tổ chức khám bệnh, chữa bệnh khác lại chưa được đề cập.
- Các quy định về bắt buộc chữa bệnh đối với bệnh lao, phong đang thời kỳ lây truyền, SIDA mặc dù đã được quy định trong Luật nhưng thực tế hiện nay cho thấy hiện quy định này đã không còn phù hợp nữa vì với sự phát triển của khoa học nói chung và khoa học y học nói riêng thì đường lây truyền của các bệnh này hiện đã được xác định rõ và vấn đề đã được giải quyết với những phương pháp điều trị thích hợp.
- Một số vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn khám bệnh, chữa bệnh hiện chưa được pháp luật quy định như: Rủi ro nghề nghiệp, áp dụng phương pháp chữa bệnh mới, giải quyết khiếu kiện của người bệnh liên quan đến khám bệnhm, chữa bệnh. Điều này dẫn đến những hạn chế nhất định trong việc nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh.
Tóm lại:
1. Vấn đề quyền và nghĩa vụ của người bệnh cũng như quyền và nghĩa vụ của thầy thuốc tuy đã được pháp luật hiện hành quy định nhưng vẫn còn sơ sài, chưa cụ thể. Đặc biệt là nhiều quyền của người bệnh chưa được quy định như: Quyền được quyết định những vấn đề về khám bệnh; chữa bệnh liên quan đến bản thân; quyền được tôn trọng bí mật riêng tư; quyền được tôn trọng nhân phẩm, quyền được từ chối chữa bệnh và chuyển viện, ra viện; quyền được lựa chọn người đại diện cho mình. Về nghĩa vụ của thầy thuốc, quy định hiện hành chưa thể hiện được nghĩa vụ của thầy thuốc với từng đối tượng khác nhau như: Người bệnh, đồng nghiệp, nghề nghiệp và xã hội. Bên cạnh đó, những quyền lợi thiết thực mà người thầy thuốc xứng đáng được hưởng khi hành nghề đó là: được bảo vệ trong quá trình hành nghề và được bảo vệ khi xảy ra tại nạn rủi ro nghề nghiệp cũng chưa được luật điều chỉnh.
2. Luật hiện hành mới chỉ quy định nghĩa vụ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong trường hợp cấp cứu người bệnh, còn những trường hợp thông thường khác của quá trình khám bệnh, chữa bệnh lại chưa được quy định cụ thể, đó là: Tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh, tổ chức thực hiện các quy định về chuyên môn kỹ thuật y tế, bảo đảm các điều kiện tối thiểu cho người hành nghề trong cơ sở thực hiện các nhiệm vụ trong phạm vi chuyên môn được phép, chấp hành sự huy động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong các trường hợp có thảm họa lớn hoặc dịch bệnh nguy hiểm. Song song với các nghĩa vụ, những quyền mà cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cũng đáng được hưởng nhưng cũng chưa được pháp luật quy định như: Thực hiện các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Luật, được nâng cao năng lực chuyên môn, từ chối khám bệnh, chữa bệnh trong trường hợp vượt quá khả năng, thu phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật, được hưởng chế độ ưu đãi khi thực hiện các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
3. Về hình thức tổ chức hành nghề và điều kiện hành nghề của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh: Vấn đề này mới được pháp luật quy định cụ thể đối với khu vực y tế tư nhân. Ngoài ra về điều kiện và phạm vi hành nghề mới chỉ được quy định ở văn bản cấp Bộ nên hiệu lực pháp lý của các quy định chưa cao. Mặt khác, một vấn đề đặt ra là nếu chỉ căn cứ việc cơ sở đáp ứng các điều kiện đặt ra để đánh giá về chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh mà cơ sở cung cấp là chưa thỏa đáng, chính vì vậy cần thiết phải xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng phù hợp để thường xuyên lượng hóa được về chất lượng của từng dịch vụ, từng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
4. Luật hiện hành mới chỉ quy định cấp chứng chỉ hành nghề cho người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân là người Việt Nam, còn đối với cá nhân nước ngoài muốn hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam thì cả người đứng đầu cơ sở cũng như người làm công việc chuyên môn trong cơ sở đầu phải được cấp chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên, việc cấp chứng chỉ hành nghề còn mang nặng tính hình thức đó là chỉ căn cứ vào việc xem xét hồ sơ. Bên cạnh đó, hệ thống cấp và quản lý hành nghề còn nhiều bất cập nên chất lượng quản lý và giám sát hoạt động hành nghề chưa cao.
5. Các quy định về điều kiện đối với người phiên dịch cho cá nhân nước ngoài hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam còn khá chặt và tính khả thi của các quy định này chưa cao.
6. Các quy định về các vấn đề chuyên môn, kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh tuy đã được đề cập tuy nhiên phần lớn các vấn đề mới chỉ được quy định tại văn bản cấp Bộ (trừ vấn đề phẫu thuật, thủ thuật và bắt buộc chữa bệnh đã được quy định trong luật) nên hiệu lực pháp lý của các quy định chưa cao, phạm vi áp dụng hẹp (mới chỉ áp dụng đối với bệnh viện). Ngoài ra, một số vấn dề mới phát sinh trong thực tiễn khám bệnh, chữa bệnh như : rủi ro nghề nghiêp, áp dụng phương pháp chữa bệnh mới, sử dụng trang thiết bị mới, thuốc mới của chưa được quy định trong Luật để làm căn cứ pháp lý cho việc ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể trong thực tiễn.
Phần thứ ba
ĐÁNH GIÁ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ VĂN BẢN CỦA MỘT SỐ TỔ CHỨC QUỐC TẾ VỀ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH
A. pháp luật của một số nước và văn bản của một số tổ chức quốc tế về khám bệnh, chữa bệnh
I. Những Công ước, tuyên ngôn và khuyến cáo quốc tế về nhân quyền và nghiên cứu y sinh học trên người và những bản nghĩa vụ luật y khoa quốc tế và của một số nước
1. Nội dung chính của công ước, tuyên ngôn và khuyến cáo quốc tế:
1.1. Công ước Châu Âu về Nhân quyền và Y sinh học (Phần liên quan đến quyền của người bệnh): Đã mô tả khá đầy đủ và hoàn thiện quyền của người bệnh tại Phụ lục B của Công ước này, với 19 điều thể hiện các quyền cơ bản sau:
Được quyền khám bệnh, chữa bệnh khi ốm đau. Được cung cấp thông tin, quyết định vấn đề khám bệnh, chữa bệnh của bản thân, chọn người đại diện cho mình, biết về danh tính của thầy thuốc, chăm sóc cấp cứu kịp thời, được đối xử công bằng trong khám bệnh, chữa bệnh, được quyền có phiên dịch; được tiếp cận Hồ sơ, bệnh án trong quá trình điều trị, được giữ bí mật thông tin cá nhân, được thầy thuốc chuyên khoa tư vấn, được tôn trọng tính mạng và nhân phẩm, chọn thầy thuốc và bệnh viện, được tố cáo những sai sót chuyên môn của người hành nghề.
1.2. Tuyên ngôn Helsinki của Hiệp hội y khoa Thế giới về nghiên cứu y sinh học (1964, bổ sung 1975, 1983, 1989):
Tuyên ngôn này gồm 3 phần chính: Nguyên tắc cơ bản; Nghiên cứu y học phối hợp với săn sóc y khoa (Nghiên cứu lầm sàng); Nghiên cứu y sinh học không có mục tiêu điều trị trên người (Nghiên cứu y sinh học, phi lâm sàng), trong đó có đưa ra các quyền quyết định của chủ thể tham gia nghiên cứu, quyền được giữ gìn sự nguyên vẹn của đời sống riêng tư và trách nhiệm cũng như quyền của thầy thuốc khi tiến hành nghiên cứu.
1.3. Tuyên ngôn về những quyền của bệnh nhân của Hiệp hội y tế Thế giới (LISBONNE 1981, BALI 1995):
Tuyên ngôn này đã đưa ra 11 nguyên tắc như: Quyền được hưởng những săn sóc y tế có chất lượng; quyền được lựa chọn; quyền quyết định; quyền đối với bệnh nhân bị mất ý thức; quyền đối với bệnh nhân bất lực về pháp lý; Sử dụng những phương pháp trái ngược với ý muốn của bệnh nhân; quyền được thông tin; quyền bảo mật nghề nghiệp; quyền được thông tin về giáo dục sức khỏe; quyền có phẩm giá; Quyền giúp đỡ về tín ngưỡng.
1.4. Nghĩa vụ luật y khoa quốc tế (1949, sửa đổi 1968 và 1983):
Đã đưa ra 3 bổn phận cơ bản mà người thầy thuốc cần phải thực hiện như: Bổn phận chung của thầy thuốc; bổn phận của thầy thuốc đối với bệnh nhân; bổn phận của thầy thuốc đối với đồng nghiệp.
1.5. Nghĩa vụ luật y đức thầy thuốc Châu Âu (1987):
Với 37 điều, văn bản này đã đưa ra 18 nguyên tắc y đức thầy thuốc Châu Âu, bao gồm: Bổn phận tổng quát; Cam đoan của thầy thuốc; Thỏa thuận sáng suốt: Độc lập tinh thần và kỹ thuật; Bí mật nghề nghiệp; Khả năng của thầy thuốc; Giúp đỡ người hấp hối; Ghép cơ quan: Sinh sản: Thực nghiệm trên người; Tra tấn và đối xử vô nhân đạo; Thầy thuốc và xã hội; Tính đồng nghiệp; Công bố các khám phá; Sự liên tục trong săn sóc; Tự do lựa chọn; Đình công y tế; Thù lao.
1.6. Pháp lệnh số 95- 1000 ngày 5/9/1995 của Y sỹ đoàn Pháp mang tên nghĩa vụ Luật y:
Pháp lệnh này bao gồm 112 điều, quy định về các nội dung chính sau: – Những bổn phận chung của thầy thuốc (Bao gồm: Tôn trọng quyền tự do lựa chọn thầy thuốc của bệnh nhân; ân cần với mọi người bệnh, giữ bí mật nghề nghiệp…);
- Bổn phận đối với bệnh nhân (Bao gồm: kê đơn rõ ràng, thông tin một cách chân thật, tôn trọng sự thỏa thuận của bệnh nhân… và thầy thuốc có quyền từ chối không điều trị vì những lý do cá nhân hay nghề nghiệp);
- Liên hệ giữa các thầy thuốc và các thành viên trong ngành y tế (Bao gồm: duy trì tinh thần đồng nghiệp, xin ý kiến đồng nghiệp…
- Về việc hành nghề: Bao gồm:
+ Quy định chung cho mọi hình thức hành nghề, trong đó có các quy định về việc thầy thuốc phải giữ bí mật tài liệu y tế liên hệ tới bệnh nhân mà họ điều trị, thầy thuốc không được hành nghề dưới bí danh, thầy thuốc phải tham gia các phiên trực ngày và đêm…
+ Hoạt động phòng mạch tư: Trong đó có các quy định như:
“Một thầy thuốc trên nguyên tắc chỉ được mở một phòng khám tư”
“Cấm thầy thuốc trao quyền điều hành phòng mạch của mình cho một đồng nghiệp khác”.
1.7. Nghĩa vụ luật thầy thuốc tại Quebec Canada, nghĩa vụ Luật thầy thuốc của Vương quốc Bỉ, Nghĩa vụ vụ Luật thầy thuốc của Thái Lan: Đều có các quy định như:
- Bổn phận và trách nhiệm đối với dân chúng; Bổn phận và trách nhiệm đối với bệnh nhân (tôn trọng người bệnh, trách nhiệm khi hành nghề, trung thực, sẵn sàng và mau mắn, trách nhiệm pháp lý, tính độc lập trong nghề nghiệp); Bổn phận đối với nghề nghiệp (Liên hệ với người cùng ngành, liên hệ với đồng nghiệp, liên hệ với tập đoàn thầy thuốc, đóng góp vào phát triển ngành nghề, giữ gìn bí mật nghề nghiệp); Các quy định về hồ sơ bệnh án (Quản lý hồ sơ, Lưu trữ hồ sơ bệnh án, kê đơn)
2. Các vấn đề được lựa chọn phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam:
- Về quyền của người bệnh: Các quy định sau được lựa chọn để đưa vào Luật:
+ Quyền được quyết định những vấn đề khám bệnh, chữa bệnh của bản thân
+ Quyền được chọn người đại diện cho mình
+ Quyền được giữ bí mật thông tin cá nhân
+ Quyền được tôn trọng nhân phẩm
+ Quyền được hưởng những săn sóc y tế có chất lượng
+ Quyền được cung cấp thông tin, tiếp cận hồ sơ, bệnh án trong quá trình điều trị
+ Quyền được lựa chọn
+ Quyền đối với người bệnh bị mất ý thức, không có năng lực hành vi dân sự.
- Về nghĩa vụ của người hành nghề: Các vấn đề sau được lựa chọn:
+ Nghĩa vụ đối với người bệnh
+ Nghĩa vụ đối với đồng nghiệp
+ Nghĩa vụ đối với nghề nghiệp
+ Nghĩa vụ đối với xã hội
- Các vấn đề mang tính nguyên tắc:
+ Một người hành nghề chỉ được đứng tên mở một phòng khám tư
+ Người hành nghề không được trao quyền điều hành cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của mình cho một đồng nghiệp khác
II. Các văn bản Luật:
1. Luật về hoạt động y tế tư nhân của Samara Oblast (Nga).
1.1. Nội dung chính của Luật :
- Đưa ra một loạt các giải thích từ ngữ như: Hoạt động y tế tư nhân, hành nghề y tế tư nhân, chủ thể của hoạt động y tế tư nhân, chăm sóc sức khỏe, tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe, Tiêu chuẩn chất lượng chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế, bệnh nhân, bác sỹ đa khoa/bác sỹ gia đình…, theo đó:
+ Tiêu chuẩn chăm sóc sức khoẻ là danh mực các yêu cầu (định mức, luật lệ và đặc tính) về chăm sóc sức khoẻ và kết quả đạt được.
+ Tiêu chuẩn chất lượng chăm sóc sức khoẻ là danh mục các yêu cầu thể hiện mức độ tuân thủ của công tác chăm sóc sức khoẻ trong các giới hạn kinh tế nhất định với các kết quả tốt nhất có được.
+ Dịch vụ y tế là chăm sóc sức khoẻ với định lượng và chi phí nhất định
+ Bệnh nhân là khách hàng của các dịch vụ y tế
- Luật quy định công dân và người nước ngoài không có quốc tịch trong nước có quyền tiến hành các hoạt động y tế tư nhân.
- Về cấp giấy phép cho hoạt động y tế tư nhân :
+ Hoạt động y tế tư nhân phải được tiến hành dựa trên giấy phép. Giấy phép để tiến hành một loại hình hoạt động y tế tư nhân cụ thể phải do Uỷ ban cấp phép thuộc Tổng cục y tế Chính phủ cấp. Giấy phép này phải được cấp trong thời hạn không dưới 3 năm.
+ Giấy phép hành nghề y tế tư nhân không có pháp nhân được cấp cho bất kỳ thể nhân nào với điều kiện người đó có chứng nhận hợp thức được triển khai từng loại hình hoạt động y tế có ghi trong giấy xin phép đăng ký.
- Thực thi và điều chỉnh hoạt động y tế tư nhân, trong đó đưa ra các quy định về xây dựng các tổ chức y tế tư nhân, quyền thực hiện các hoạt động y tế tư nhân, quyền của chủ thể các hoạt động y tế tư nhân, trách nhiệm của chủ thể hoạt động y tế tư nhân, tài liệu và Báo cáo y tế, chấm dứt hoạt động y tế tư nhân (Cơ sở để chấm dứt hoạt động y tế tư nhân bao gồm: Hết hạn giấy phép, phán quyết của toà án về việc thu hồi giấy phép và quyết định của chủ thể hoạt động y tế tư nhân; bệnh và các tổ chức phải được thông báo về quyết định chấm dứt hoạt động y tế tư nhân ít nhất 2 tháng trước ngày chấm dứt nếu không có quy định khác trong hợp đồng liên quan).
1.2. Những vấn đề được lựa chọn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam :
- Giải thích từ ngữ :
+ Người bệnh là người được hưởng dịch vụ y tế
+ Tiêu chuẩn chất lượng chăm sóc sức khoẻ là sự tuân thủ các yêu cầu của chăm sóc sức khoẻ để đạt được kết quả tốt nhất.
- Quy định về người nước ngoài có quyền hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam.
2. Luật về hành nghề y của Thái Lan.
2.1. Nội dung chính của Luật :
Luật này quy định về các vấn đề liên quan đến Hội đồng y khoa là cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm giải quyết việc hành nghề y tế.
Trong Đạo luật này đã đưa ra giải thích với các từ ngữ như: Nghề y, Bệnh, Người hành nghề, Giấy phép, Thành viên, Uỷ viên Hội đồng, Uỷ ban, Tổng thư ký, Bộ trưởng, Theo đó:
- Nghề y là nghề thực hiện các hoạt động khám bệnh, chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh, đỡ đẻ, đặt kính tiếp xúc để chữa thị lực, châm cứu cho mục địch chữa bệnh hoặc gây mê, bao gồm cả phẫu thuật, sử dụng bức xạ, tiêm thuốc hoặc các chất khác, đưa bất cứ chất nào vào bên trong cơ thể cho mục đích hạn chế sinh đẻ, làm đẹp hoặc năng cao sức khoẻ.
- Bệnh là bất kỳ sự ốm đau, thương tật, bất kỳ sự dị thường nào về thể chất hoặc tinh thần và các triệu chứng có liên quan.
- Người hành nghề là người đã đăng ký và được Hội đồng y khoa cấp Giấy phép hành nghề.
- Giấy phép là Giấy công nhận người hành nghề do Hội đồng y khoa cấp cho người hành nghề.
Luật được kết cấu bởi 5 phần chính:
Phần I. Hội đồng y khoa (gồm: Khẳng định HĐYK là cơ quan luật pháp, mục tiêu của Hội đồng, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng, kinh phí hoạt động), trong đó, nghĩa vụ của Hội đồng là:
- Đăng ký và cấp giấy phép cho những người nộp đơn xin phép được hành nghề y
- Đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép hành nghề
- Công nhận bằng cấp, chứng chỉ về y tế hoặc bằng chuyên nghiệp của các thể chế
- Công nhận các chương trình giảng dạy về đào tạo y tế
- Công nhận tiêu chuẩn học thuật của các thể chế y tế.
- Cấp văn bằng chuyên ngành y trong các lĩnh vực khác nhau về hành nghề y và cấp chứng chỉ đào tạo đặc biệt về nghề y.
Phần II. Các thành viên (gồm: Tiêu chuẩn thành viên Hội đồng, Quyền và nghĩa vụ của thành viên)
Phần III. Uỷ ban thường trực của Hội đồng y khoa (Gồm các quy định về thành phần của ủy ban, tiêu chuẩn lựa chọn giữ các chức vụ trong Uỷ ban, quyền hạn và nghĩa vụ của Uỷ ban, Quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký, Phó Tổng thư ký)
Phần IV. Các công việc của Uỷ ban
Phần V. Kiểm soát việc hành nghề y tế
2.2. Những vấn đề được lựa chọn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam:
- Vấn đề thành lập Hội đồng y khoa cấp phép hành nghề với những chức năng sau :
+ Đăng ký và cấp Giấy phép cho người hành nghề
+ Đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép hành nghề
+ Công nhận bằng cấp, chứng chỉ về y tế hoặc bằng chuyên nghiệp của các thể chế
+ Công nhận các chương trình giảng dạy về đào tạo y tế
- Hội đồng Y khoa vận hành được nhờ các Uỷ ban giúp việc
- Hội đồng Y khoa thực hiện việc cấp chứng hành nghề đối với tất cả những người hành nghề, không phân biệt khu vực Nhà nước hay tư nhân.
- Hội đồng Y khoa có sự tham gia của Bộ Y tế, đại diện Hội nghề nghiệp, một số trường Đại học và người hành nghề.
3. Luật về hành nghề của thầy thuốc ở Pháp (cả công và tư).
3.1. Nội dung chính của Luật
Luật này do Hội các bác sĩ soạn thảo (Association of Medical Doctors) được Quốc hội và Chính phủ thông qua theo Quyết định số 79506 ngày 28 tháng 6 năm 1979. Luật gồm 5 Chương và 93 Điều. Mọi hội viên của Hội và những người khác có giấy phép hành nghề đều phải tuân theo luật này.
Chương I: Quy định cấm thầy thuốc gợi ý người bệnh đưa quà hay nhận tiền hoa hồng của bệnh nhân. Cấm thầy thuốc cho tiền người môi giới người bệnh đến với mình (Điều 24). Cấm chia phí sử dụng (user fees) cho các bác sĩ dưới bất cứ hình thức nào. Cấm thu thêm tiền của bệnh nhân ngoài các khoản phải trả theo quy định. Cấm thương lượng ngầm giữa các bác sĩ và dược sĩ bán thuốc. Cấm thương lượng ngầm giữa các bác sĩ chuyên khoa khác nhau. Không được khám chữa bệnh ở nơi buôn bán. Cấm khám bệnh, chữa bệnh và bán thuốc cùng một chỗ (Điều 26). Bác sĩ không được phép lợi dụng địa vị xã hội và hành chính để lôi kéo người bệnh (Điều 29). Cấm bác sĩ dùng các phương pháp lang băm hay các phương pháp điều trị không có căn cứ khoa học (Điều 30). Bác sĩ không được phép áp dụng các phương pháp điều trị mới mà chưa được chứng minh đầy đủ. Trong trường hợp được phép thì việc áp dụng trước hết là ở trong ngành y tế hơn là trong nhân dân (Điều 31). Cấm tuyệt đối việc hành nghề bất hợp pháp (Điều 32).
Chương II: Quy định trách nhiệm của bác sỹ đối với người bệnh, có 16 điều, ví dụ: Bác sĩ phải làm việc hết mình với đạo đức cao. Những trường hợp vượt quá khả năng của mình phải chuyển người bệnh đến chỗ có khả năng điều trị tốt hơn (Điều 34). Khi chứng nhận tàn tật cho bệnh nhân phải nói đúng và sự thật (Điều 47). Không được phép cấp giấy chứng nhận cho khách hàng ngoài mục đích sức khoẻ (Điều 49). Không để người bệnh trong tình trạng nguy hiểm (Điều 40). Không để người bệnh biết bệnh cấp cứu và không chữa được nhưng phải cho người thân của người bệnh nhân. Phải tôn trọng nhân cách và giá trị con người của người bệnh (Điều 35). Không tò mò công việc riêng tư của người bệnh (Điều 46).
Chương III: Quy định quan hệ giữa các bác sĩ với nhau và với nhân viên cấp dưới. Có 12 điều, ví dụ: Không được lôi kéo bệnh nhân của đồng nghiệp (Điều 51). Tất cả các bác sĩ không được phép cạnh tranh bằng cách giảm giá khám chữa bệnh để có bệnh nhân, nhưng không cấm KCB miễn phí (Điều 54).
Chương IV: Quy định một số vấn đề về thực hành kỹ thuật, gồm 24 điều. Ví dụ: Mỗi bác sĩ được phép mở một phòng khám bệnh, nếu ai muốn mở phòng thứ hai, phải có giấy phép (Điều 63). Không được phép thực hiện khám chữa bệnh ở chợ (Điều 64). Bác sĩ không được phép có một bác sĩ khác hay một sinh viên thay mặt mình khám chữa bệnh (Điều 65). Một nhóm các bác sĩ hợp tác làm việc chung với nhau, nhưng phải tôn trọng sự độc lập của mỗi người (Điều 71). Mỗi người phải có tính độc lập và trách nhiệm của riêng mình (Điều 72). Chi phí cho dịch vụ KCB phải tính đúng như qui định hiện có (Điều 70). Không ai là bác sĩ vừa là thanh tra y tế vừa là bác sĩ điều trị (Điều 83).
Chương V: Quy định về trách nhiệm thực hiện Luật như: Các bác sĩ hành nghề phải hiểu và thề tuân theo Luật này.
Luật hành nghề của thầy thuốc ở Pháp là cơ sở để Chính phủ quản lý vì lợi ích của người bệnh và quyền lợi của bác sĩ. Hình ảnh của bác sĩ trong luật rất cao thượng và đẹp đẽ, đáng được người bệnh.
3.2. Những vấn đề được lựa chọn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam
- Xây dựng 1 Luật để điều chỉnh hoạt động khám bệnh, chữa bệnh chung cho cả khu vực Nhà nước và tư nhân.
- Thầy thuốc phải tuân thủ các quy định chuyên môn (phương pháp điều trị có căn cứ khoa học)
- Thầy thuốc chỉ được áp dụng phương pháp chữa bệnh mới khi đã được chứng minh đầy đủ.
- Trong trường hợp vượt quá khả năng trong điều trị, cơ sở y tế đang tiếp nhận người bệnh phải chuyển người bệnh đến cơ sở y tế khác có khả năng điều trị tốt hơn sau khi đã thực hiện các công việc khám, chữa bệnh cần thiết.
- Thầy thuốc có nghĩa vụ tôn trọng nhân cách, bí mặt riêng tư của người bệnh.
- Mỗi thầy thuốc chỉ được đứng tên một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư.
4. Luật về Hành nghề y của Zambia
4.1. Nội dung chính của Luật
Quy định về Hội đồng hành nghề y tế, đăng ký người hành nghề y tế, Quyền của người được cấp giấy phép hành nghề và các hình phạt đối với người hành nghề không phép, Giấy phép hành nghề hàng năm, đào tạo y khoa, đăng ký/giấy phép cấp cho cơ sở y tế, kiểm định/công nhận dịch vụ y tế, hành vi vi phạm chuyên môn, khiếu nại, hành chính.
- Về Hội đồng nghề y có rất nhiều chức năng, trong đó có những chức năng sau: Đăng ký người hành nghề y; ban hành quy định về hành vi chuyên môn của người hành nghề; Cấp chứng chỉ hành nghề ; phê duyệt các chương trình đào tạo bắt buộc như là điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề…
- Về đăng ký hành nghề: Có 4 hệ thống hành nghề:
+ Người hành nghề được đăng ký có điều kiện (Đăng ký hành nghề có điều kiện): áp dụng đối với công dân Zambia sau khi đã có bằng đại học, cao đẳng hoặc các chứng chỉ nghề khác của Trường Đại học, Cao đẳng hay các cơ sở đào tạo khác ở Zambia được Hội đồng Hành nghề y tế công nhận sẽ được xem xét và được đăng ký vào Hệ thống Đăng ký hành nghề có điều kiện.
+ Người hành nghề được đăng ký đầy đủ (toàn phần): áp dụng đối với người: đã được đăng ký hành nghề có điều kiện từ 12 tháng trở lên đối với bác sỹ y khoa và nha khoa, không dưới 6 tháng với các loại hình hành nghề khác tại bệnh viện hoặc cơ sở y tế được Hội đồng công nhận và có giấy xác nhận của thủ trưởng cơ sở y tế đó; đã hành nghề trực tiếp không dưới 12 tháng tại 1 bệnh viện hoặc cơ sở y tế đóng tại khu vực nông thôn; đã tuân thủ các cquy định của Luật này; có tư cách đạo đức cũng như uy tín hành nghề tốt.
+ Đăng ký hành nghề tạm thời (ngắn hạn): áp dụng đối với cá nhân không phải công dân Zambia những đáp ứng các điều kiện đặt ra của Luật này.
+ Người hành nghề được đăng ký hành nghề hạn chế: áp dụng đối với cá nhân đã được phép hành nghề ở quốc gia khác để có thể hành nghề tại Zambia trong một thời gian hạn định, tuy nhiên cũng cần phải tuân thủ các điều kiện do Luật đặt ra.
Ngoài ra, còn có hình thức đăng ký hành nghề chuyên khoa: Một người sẽ đủ điều kiện để đăng ký hành nghề chuyên khoa nếu đã có chứng chỉ đào tạo sau đại học được Hội đồng công nhận.
- Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không đựơc phép tuyển người chưa được cấp chứng chỉ hành nghề y vào làm công việc chuyên môn tại cơ sở đó.
- Về Chứng chỉ/Giấy phép hành nghề: Cần được gia hạn hàng năm (Hội đồng sẽ ra quy định về ban hành chứng chỉ hành nghề hàng năm) .
- Về kiểm định dịch vụ y tế: Có đưa ra quy định về kiểm định chất lượng bắt buộc (do Hội đồng quy định), cấp chứng nhận kiểm định (được gia hạn hàng năm cùng với thời điểm gia hạn Giấy phép của cơ sở y tế).
4.2. Những vấn đề được lựa chọn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam
- Thành lập Hội đồng y khoa với các quy định về chức năng của Hội đồng như sau: Đăng ký người hành nghề y; ban hành quy định về hành vi chuyên môn của người hành nghề; Cấp chứng chỉ hành nghề ; phê duyệt các chương trình đào tạo bắt buộc như là điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề…
- Hội đồng Y khoa được tổ chức bởi các Uỷ ban chuyên khoa giúp việc cho Hội đồng về từng chuyên khoa.
- Chứng chỉ hành nghề được cấp cho tất cả những người hành nghề không kể là người đứng đầu của cơ sở y tế hay là người làm công việc chuyên môn tại cơ sở.
- Quy định về kiểm định chất lượng dịch vụ y tế.
5. Luật về hành nghề y của Malaysia năm 1971.
5.1. Nội dung chính của Luật
Luật quy định về thành lập Hội đồng Y khoa với các Uỷ ban giúp việc về từng chuyên khoa, Văn phòng thường trực để cấp giấy phép hành nghề, Thủ tục đăng ký hành nghề y để áp dụng đối với người hành nghề trong khu vực nhà nước, theo đó Luật quy định các hình thức cấp phép :
- Cấp phép tạm thời : Hình thức này áp dụng đối với những cá nhân muốn hành nghề tạm thời với mục đích thu thập kinh nghiệm.
- Cấp phép đầy đủ: Những cá nhân ngay sau khi được cấp phép tạm thời cần phải bắt đầu làm việc tại cơ sở y tế bất kỳ nào đó trong thời gian khoảng 01 năm và được Ban Xét tuyển y khoa chứng nhận đã hoàn thành nhiệm vụ.
- Chứng chỉ hành nghề y: Người đã được cấp phép đầy đủ muốn hành nghề phải được cấp chứng chỉ hành nghề hàng năm. Đơn xin cấp cấp chứng chỉ phải nêu rõ địa điểm hành nghề chính và các địa chỉ hành nghề khác. Khi thay đổi địa điểm phải thông báo và xin phép cơ quan quản lý (Hội đồng y khoa).
- Một trong những hạn chế cấp phép là đối với những cá nhân đã từng bị kết án với tội danh liên quan đến lừa đảo, thiếu trung thực, vi phạm đạo đức hay một tội danh phải chịu mức phạt tù từ 2 năm trở lên; sau khi Hội đồng chất vấn kết luật cá nhân đó không phù hợp để thực hiện nhiệm vụ chuyên do điều kiện thể chất, tinh thần, thiếu tư cách, nhân phẩm.
Ngoài ra Luật cũng quy định về cấp chứng chỉ hành nghề tạm thời cho người nước ngoài với thời hạn không quá 3 tháng.
5.2. Những vấn đề được lựa chọn để áp dụng tại Việt Nam
- Thành lập Hội đồng Y khoa với các Uỷ ban giúp việc về từng chuyên khoa và Văn phòng thường trực để cấp Giấy phép hành nghề.
- Quy định về cấp chứng chỉ hành nghề có giá trị 1 năm đối với sinh viên thực hành sau khi tốt nghiệp.
- Quy định về cấp chứng chỉ ngắn hạn đối với người nước ngoài.
- Quy định về các trường hợp hạn chế cấp phép như : đã từng bị kết án với tội danh liên quan đến lừa đảo, thiếu trung thực, vi phạm đạo đức hay một tội danh phải chịu mức phạt tù từ 2 năm trở lên; sau khi Hội đồng chất vấn kết luật cá nhân đó không phù hợp để thực hiện nhiệm vụ chuyên do điều kiện thể chất, tinh thần, thiếu tư cách, nhân phẩm.
6. Tài liệu về 4 mô hình quản lý hoạt động hành nghề y của quốc tế và Mỹ (do Gs. Feeley- Trung tâm y tế Quốc tế- Trường ĐH Boston (Mỹ) cung cấp)
6.1. Các nội dung chính: Đưa ra 4 mô hình quản lý hành nghề y như sau :
Mô hình 1: Bộ Y tế là cơ quan duy nhất cấp phép hành nghề, mô hình này có các ưu điểm, nhược điểm sau :
- ưu điểm :
+ Nhà nước hoàn toàn chịu trách nhiệm quản lý
+ Hạn chế khuynh hướng các cơ sở y tế thâu tóm toàn bộ
+ Ngày càng quan tâm đến vai trò cần thiết của người cung cấp dịch vụ không phải là bác sỹ.
- Nhược điểm :
+ Bộ máy nhà nước trì trệ, không đáp ứng kịp với sự phát triển của nghề nghiệp.
+ Liệu có đủ ngân sách cho hoạt động kiểm tra và thực thi pháp luật không ?
+ Nguy cơ dẫn đến tham nhũng
+ Không công bằng giữa khu vực Nhà nước và tư nhân
Mô hình 2: Chính phủ thành lập Hội đồng y học để quản lý nghề nghiệp, mô hình này với các ưu điểm, nhược điểm sau :
- ưu điểm :
+ Thu thập được ý kiến của nhiều nhà lãnh đạo trong lĩnh vực y học được Chính phủ bổ nhiệm từ đại diện công chúng, các nhà chuyên môn tham gia vào Hội đồng.
+ Được Chính phủ thành lập nên có sự đối xử công bằng hơn giữa khu vực nhà nước và tư nhân.
+ ảnh hưởng của nhà nước thông qua việc bổ nhiệm
+ Đáp ứng nhanh đối với các thay đổi kỹ thuật
+ Duy trì được việc thu phí cấp phép cho các hoạt động
- Nhược điểm :
+ Khuynh hướng các cơ sở y tế thâu tóm toàn bộ
+ Làm giảm vai trò quản lý, định hướng của nhà nước
+ ít có sự đại diện công bằng do bị ảnh hưởng bởi lợi ích của các nhóm nghề nghiệp khác nhau.
+ Liệu các quy trình thực thi pháp luật có công bằng không ?
Mô hình 3: Tự quản lý theo nghề nghiệp và Luật quy định hội viên của Hội nghề nghiệp y học mới được hành nghề. Mô hình này có các ưu, nhược điểm sau:
- ưu điểm :
+ Hội đồng tổ chức kiểm tra lý thuyết và thực hành trước khi cấp chứng chỉ hành nghề đối với các cá nhân.
+ Có khả năng thích ứng nhanh với những phát triển của công nghệ
+ Dễ huy động kinh phí thông qua việc thu phí hội viên
+ ít có nguy cơ tham nhũng của Nhà nước
- Nhược điểm :
+ Nguy cơ các cơ sở y tế thâu tóm toàn bộ
+ Nhà nước mất vai trò quản lý, định hướng, các khiếu nại liệu có được xem xét một cách nghiêm túc không ?
Mô hình 4 : Mô hình kết hợp : Nhà nước cấp phép hành nghề kết hợp với tự quản lý (Mô hình của Mỹ). Mô hình này có những ưu, nhược điểm sau :
- ưu điểm :
+ Nhà nước giữ vai trò tuyệt đối trong việc ra quyết định khi các dịch vụ CSSK không đạt yêu cầu
+ Có thể đáp ứng với những thay đổi về công nghệ
+ Buộc mỗi Hội nghề nghiệp phải có trách nhiệm hơn.
- Nhược điểm :
+ Các yêu cầu quản lý dễ bị mâu thuẫn và gây nhầm lẫn
+ Cần một cơ chế thực thi việc công nhận chất lượng của khu vực y tế tư nhân
+ Vẫn có nguy cơ tham nhũng
6.2. Mô hình được lựa chọn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam
Mô hình 2- Hội đồng y học là phù hợp nhất với Việt Nam hiện nay vì các lý do sau:
- Hiện nay 8/11 nước ASEAN đã áp dụng mô hình này trừ Việt Nam, Lào và Căm pu chia.
- Các tổ chức xã hội nghề nghiệp ở Việt Nam mới đang bắt đầu phát triển, chưa có đủ năng lực để độc lập hoạt động mà không có sự hỗ trợ của Nhà nước. Với mô hình này Nhà nước vẫn giữ được vai trò quản lý, định hướng các hoạt động hành nghề, sử dụng quyền lực của nhà nước để xử lý các vi phạm.
- Với mô hình này vừa tận dụng được ý kiến của các nhà chuyên môn vừa bảo đảm tính linh hoạt trong điều hành, xây dựng các quy định.
- Hiện nay số lượng các cơ sở y tế nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn nên Nhà nước vẫn phải giữ vai trò chính trong quản lý và định hướng hoạt động.
- Các loại hình dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh ngày càng đa dạng, hệ thông y tế tư nhân đang rất phân tán, thiếu tổ chức, do vậy cần phải có bộ máy thích hợp để quản lý các hoạt động hành nghề.
- Việc chi trả cho chăm sóc y tế có thể tận dụng được từ các nguồn khác nhau như: Ngân sách nhà nước, Bảo hiểm y tế, đóng góp của người dân.
- Mô hình này tăng tính độc lập của cơ quan quản lý về hành nghề y trong việc xét cấp giấy phép hành nghề, tách ra khỏi sự quản lý trực tiếp của Bộ Y tế theo hướng tiếp cận xã hội dân sự, giảm khuynh hướng các cơ sở y tế có thể thâu tóm toàn bộ.
- Việc Hội đồng tổ chức kiểm tra lý thuyết và thực hành đối với cá nhân trước khi cấp chứng chỉ hành nghề sẽ khắc phục được tình trạng cấp chứng chỉ mang nặng tính hình thức là dựa trên hồ sơ ở Việt Nam hiện nay.
7. Luật về sơ suất trong y khoa của Hoa Kỳ:
7.1. Nội dung chính của Luật
- Theo đó khái niệm sơ suất có nghĩa là mọi người phải có sự cẩn trọng hợp lý trong công việc, nếu không, họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những tổn hại mà bình thường có thể dự đoán được từ hành vi sơ suất đó.
- Luật quy định các vấn đề về:
+ Quỹ bồi thường cho bệnh nhân
+ Nhất quán luật về sơ suất với các quy định về an toàn bệnh nhân
+ Mở rộng các quỹ rủi ro chung
+ Tiêu chuẩn khám chữa bệnh cẩn trọng của thầy thuốc
+ Trách nhiệm doanh nghiệp
- Quỹ bồi thường bệnh nhân hay quỹ bảo hiểm sơ suất chung thuộc nhà nước. Cho dù số tiền bồi hoàn lớn đến đâu thì các thầy thuốc nói chung chỉ phải chịu trách nhiệm đối với một khoản bồi hoàn nhất định. Số tiền còn lại sẽ do Quỹ bồi thường bệnh nhân cấp.
Về mở rộng các quy rủi rõ chung: Vì tình trạng sai sót y khoa tiến triển ở từng tiểu bang một nên phạm vi bảo hiểm rủi ro do sai sót cũng phản ánh những khác biệt giữa các bang. ở nhiều tiểu bang, phần lớn hay toàn bộ bảo hiểm sai sót được cung ứng thông qua các công ty thuộc sở hữu của hiệp hội y khoa hay các nhóm thầy thuốc khác. Nhiều bệnh viện và hội nhóm thầy thuốc lớn sử dụng cách tự bảo hiểm, có nghĩa là họ tự trả chi phí do sai sót của mình đến một giới hạn nào đó và chỉ mua những gì gọi là tái bảo hiểm để trang trải thiệt hại vượt quá mốc đó. Ngay cả khi có một công ty bảo hiểm bán bảo hiểm rủi ro do sai sót ở nhiều tiểu bang thì mức phí bảo hiểm vẫn dựa trên kinh nghiệm dự đoán của các thầy thuốc trong một tiểu bang hoặc thậm chí một khu vực địa lý hẹp hơn. Kết quả là sự khác biệt trong luật về sai sót y khoa giữa các tiểu bang sẽ dẫn tới khác biệt lớn trong chi phí bảo hiểm rủi ro do sai sót giữa bang này với bang khác, ngay cả với cùng một chuyên môn, dẫn đến biến động lớn hàng năm. Để ổn định quỹ rủi ro chung, Luật đã đưa ra các tiêu chuẩn chăm sóc cẩn trọng dành cho thầy thuốc.
7.2. Những vấn đề được lựa chọn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam
- Sử dụng hình thức tự bảo hiểm đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và thầy thuốc.
- Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm bảo bồi thường cho người bị thiệt hại, sau đó sẽ xác định lỗi của tổ chức, cá nhân nào thì tổ chức, cá nhân đó có trách nhiệm bồi hoàn lại cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
- Các công ty bảo hiểm có vai trò tổ chức việc bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp.
B. Đánh giá Pháp luật của một số nước và tổ chức quốc tế về khám bệnh, chữa bệnh
1. Nhận định chung:
- Luật của phần lớn các nước đều có xu hướng quy định về một vấn đề cụ thể nào đó trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, Ví dụ : Luật về sơ suất y khoa của Hoa Kỳ, Luật về hành nghề y tư nhân của bang Samara oblast (Nga), Luật nghề y của Thái lan (chủ yếu quy định về Hội đồng y khoa- cơ quan có thẩm quyền giải quyết hành nghề y tế của Thái Lan).
- Luật các đưa ra các quy định chung đối với người hành nghề thuộc cả khu vực Nhà nước và tư nhân (trừ Malaysia và bang Oblast- Nga là có luật riêng cho khu vực Nhà nước, khu vực tư nhân).
- Luật của các nước và văn bản của một số tổ chức quốc tế đều khẳng định quyền được khám bệnh chữa bệnh khi ốm đau của người bệnh- đây là xuất phát điểm dẫn đến các quyền khác của người bệnh. Điều này thể hiện sự công bằng, bình đẳng trong khám bệnh, chữa bệnh.
- Luật của hầu hết các nước và văn bản của một số tổ chức quốc tế đều chỉ đề cập chủ yếu đến quyền của bệnh nhân, nghĩa vụ của thầy thuốc còn các quy định về nghĩa vụ của bệnh nhân, quyền của thầy thuốc thì chưa được đề cập hoặc được đề cập nhưng còn mờ nhạt.
- Luật của các nước đều quy định thành lập Hội đồng mà không phải là Bộ Y tế để cấp chứng chỉ hành nghề cho các cá nhân hành nghề trong cả nước.
- Pháp luật các nước đã đưa ra những quy định hết sức cụ thể về hình thức, điều kiện hành nghề đối với cơ sở và cá nhân hành nghề cũng như thủ tục, trình tự cấp Giấy phép hành nghề (Bao gồm Giấy phép cho cá nhân và cơ sở).
- Luật Sơ suất y khoa của Mỹ đã đề cấp đến vấn đề về rui ro nghề nghiệp và hình thức bảo hiểm đối với rủi ro này cũng như trách nhiệm bồi thường đối với người bị thiệt hại.
2. Những quy định đã có trong hệ thống pháp luật của Việt Nam và sự khác biệt:
Các quy định như: Quyền của người bệnh; trách nhiệm của thầy thuốc; Quyền và trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện hành nghề khám bệnh, chữa bệnh (đối với cơ sở và cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài thuộc khu vực tư nhân); vấn đề đào tạo lại, đào tạo liên tục cũng đã được quy định trong pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên có sự khác biệt đó là các quy định của pháp luật Việt Nam còn chung chung, chưa cụ thể và Giấy phép hành nghề cũng như chứng chỉ hành nghề tại Việt Nam được gia hạn 3 năm 1 lần, trong khi các nước khác các loại Giấy này được gia hạn hàng năm với sự tuân thủ một cách nghiêm ngặt hàng loạt các điều kiện đặt ra. Tại Việt Nam việc xét cấp chứng chỉ hành nghề dựa trên hồ sơ, những các nước khác thì tổ chức thi cả lý thuyết và thực hành theo chương trình đào tạo đã được phê duyệt. Ngoài ra ở các nước cứ ít nhất 5 năm sau khi được phê duyệt, chương trình đào tạo lại được rà soát và đánh giá lại nếu không còn phù hợp với thực tiễn sẽ bị hủy bỏ.
3. Những quy định mới đối với Việt Nam:
- Vấn đề gia hạn Chứng chỉ hành nghề hàng năm đối với cá nhân hành nghề.
- Vấn đề gia hạn hàng năm giấy phép hành nghề đối với các ccơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
- Xây dựng Chương trình đào tạo liên tục cho người hành nghề và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thi lý thuyết và thực hành để cấp chứng chỉ hành nghề dựa trên chương trình đào tạo đã được phê duyệt.
- Vấn đề thành lập Hội đồng y khoa để đăng ký, cấp và gia hạn chứng chỉ hành nghề, đào tạo liên tục.
- Vấn đề công nhận chất lượng đối với từng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh
- Về đề sơ suất trong y tế
- Vấn đề giải quyết khiếu kiện của người bệnh.
Phần thứ tư
ĐỀ XUẤT NỘI DUNG DỰ ÁN LUẬT KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH
Từ những phân tích, đánh giá trên; để bảo đảm nguyên tắc kế thừa có chọn các quy định hiện hành trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực của pháp luật quốc tế về khám bệnh, chữa bệnh, không làm cản trở việc thực hiện Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; để bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bệnh, của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng; thực hiện quan điểm không có sự phân biệt đối xử về pháp luật giữa khu vực y tế Nhà nước và khu vực y tế tư nhân, nhóm nghiên cứu xin đề xuất những nội dung chính của Dự án Luật Khám bệnh chữa bệnh như sau:
I. Quyền và nghĩa vụ của người bệnh:
1. Quyền của người bệnh: Bao gồm các quyền sau:
- Quyền được quyết định những vấn đề về khám bệnh, chữa bệnh liên quan đến bản thân.
- Quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm
- Quyền được tôn trọng bí mật riêng tư
- Quyền được khám bệnh, chữa bệnh có chất lượng
- Quyền được trao đổi, cung cấp thông tin, tiếp cận với hồ sơ bệnh án và chi phí khám bệnh, chữa bệnh
- Quyền được từ chối chữa bệnh, chuyển và ra khỏi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
- Quyền được chọn người đại diện cho mình
2. Nghĩa vụ của người bệnh: Bao gồm các nghĩa vụ sau:
- Tôn trọng thầy thuốc.
- Chấp hành các quy định trong khám bệnh, chữa bệnh.
- Chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh
II. Quyền và nghĩa vụ của người hành nghề trong khám bệnh, chữa bệnh:
1. Quyền của người hành nghề: Bao gồm các quyền sau:
- Quyền được hành nghề
- Quyền được từ chối khám bệnh, chữa bệnh
- Quyền được nâng cao năng lực chuyên môn.
- Quyền được bảo vệ khi xảy ra tai nạn rủi ro nghề nghiệp đối với người bệnh.
- Quyền được an toàn nghề nghiệp khi hành nghề.
2. Nghĩa vụ của người hành nghề:
- Nghĩa vụ đối với người bệnh
- Nghĩa vụ đối với đồng nghiệp
- Nghĩa vụ đối với nghề nghiệp
- Trách nhiệm đối với xã hội
III. Quyền và nghĩa vụ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
1. Quyền của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh: Bao gồm các quyền sau:
- Thực hiện các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Luật.
- Từ chối khám bệnh, chữa bệnh trong trường hợp vượt quá khả năng.
- Thu phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
- Được hưởng chế độ ưu đãi khi thực hiện các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
- Tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh.
- Tổ chức thực hiện các quy định của về chuyên môn kỹ thuật y tế.
- Bảo đảm các điều kiện tối thiểu cho người hành nghề trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi chuyên môn được phép.
- Chấp hành sự huy động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong các trường hợp có thảm họa lớn hoặc dịch bệnh nguy hiểm .
IV. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
1. Hình thức tổ chức và điều kiện hoạt động: Bao gồm các quy định:
- Các hình thức tổ chức hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
- Điều kiện hoạt động của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
- Điều kiện hoạt động của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
- Điều kiện cấp Giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
- Giá trị của Giấy phép hoạt động của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
2. Thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh: Bao gồm các quy định:
- Thẩm quyền cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
- Hồ sơ đề nghị cấp, gia hạn Giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chưac bệnh
- Thủ tục cấp, gia hạn Giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
- Thu hồi Giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
- Phí, lệ phí cấp, gia hạn Giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
3. Công nhận chất lượng đối với từng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh hoặc đối với bệnh viện: Bao gồm các quy định:
- Nâng cao chất lượng đối với từng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và đối với bệnh viện.
- Tổ chức thực hiện công nhận chất lượng đối với từng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và đối với bệnh viện.
V. Cá nhân hành nghề khám bệnh, chữa bệnh: Bao gồm các quy định:
1. Hình thức hành nghề và điều kiện đối với cá nhân hành nghề khám bệnh, chữa bệnh:
- Đối tượng hành nghề phải có chứng chỉ hành nghề
- Điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề đối với cá nhân Việt Nam
- Điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề tại Việt Nam đối với cá nhân là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
- Điều kiện đối với cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến Việt Nam để khám bệnh, chữa bệnh nhân đạo hoặc chuyển giao kỹ thuật chuyên môn về khám bệnh, chữa bệnh hoặc hợp tác đào tạo về y có thực hành khám bệnh, chữa bệnh
- Thừa nhận chứng chỉ hành nghề lẫn nhau
- Sử dụng ngôn ngữ trong hành nghề đối với cá nhân là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Giá trị của chứng chỉ hành nghề.
2. Hội đồng Y khoa cấp, gia hạn chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh:
- Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Y khoa
- Địa vị pháp lý của Hội đồng y khoa
- Nguyên tắc hoạt động của Hội đồng
3. Hồ sơ, thủ tục cấp, gia hạn, thu hồi chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh:
- Hồ sơ đề nghị cấp, gia hạn chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
- Thủ tục cấp, gia hạn chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
- Thu hồi chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
- Phí, lệ phí cấp, thu hồi chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
VI. Các quy định chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh: Bao gồm các quy định:
1. Chế độ trực
2. Chế độ hồi sức cấp cứu và chống độc
3. Chế độ chẩn đoán bệnh, kê đơn thuốc điều trị và làm hồ sơ bệnh án.
4. Chế độ vào, chuyển khoa, chuyển hoặc ra cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
5. Chế độ điều trị ngoại trú
6. Chế độ hội chẩn
7. Chế độ chăm sóc người bệnh toàn diện
8. Chế độ xử lý đối với người bệnh không có người nhận
9. Chế độ sử dụng thuốc trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
10. Chế độ chống nhiễm khuẩn trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
11. Chế độ xử lý chất thải y tế
12. Chế độ xử lý đối với người bệnh tử vong
13. Chế độ phẫu thuật, thủ thuật
14. Chế độ bắt buộc chữa bệnh
VII. Sai sót chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh và giải quyết khiếu kiện của người bệnh về sai sót chuyên môn
1. Sai sót chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh:
- Các yếu tố xác định người hành nghề không có sai sót chuyên môn đối với người bệnh.
- Hội đồng chuyên môn xác định tai nạn rủi ro nghề nghiệp
- Thành lập Hội đồng xác định sai sót chuyên môn gây ra rủi ro trong khám bệnh, chữa bệnh.
- Trách nhiệm của người hành nghề, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khi xảy ra sai sót chuyên môn.
- Xác định mức bồi thường thiệt hại do sai sót chuyên môn gây ra rủi ro trong khám bệnh, chữa bệnh.
- Bảo hiểm trách nhiệm trong trường hợp xảy ra rủi ro trong khám bệnh, chữa bệnh.
2. Giải quyết khiếu kiện của người bệnh về sai sót chuyên môn:
- Khiếu nại về khám bệnh, chữa bệnh.
- Thẩm quyền, trình tự giải quyết khiếu nại.
- Tố cáo, giải quyết tố cáo về khám bệnh, chữa bệnh.
VIII. áp dụng kỹ thuật chuyên môn mới, phương pháp chữa bệnh mới trong khám bệnh, chữa bệnh
- Khái niệm kỹ thuật chuyên môn m
ới, phương pháp chữa bệnh mới trong khám bệnh, chữa bệnh.
- Thẩm quyền cho phép áp dụng kỹ thuật chuyên môn mới, phương pháp chữa bệnh mới.
- Điều kiện áp dụng kỹ thuật chuyên môn mới, phương pháp chữa bệnh mới.
- Trình tự, thủ tục áp dụng kỹ thuật chuyên môn mới, phương pháp chữa bệnh mới trong khám bệnh, chữa bệnh.
- Hồ sơ đề nghị cho phép áp dụng kỹ thuật chuyên môn mới, phương pháp chữa bệnh mới.
KẾT LUẬN
Với những phân tích, đánh giá hệ thống pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh của Việt Nam và pháp luật của một số nước trên thế giới, Báo cáo đã đưa ra một bức tranh khái quát về thực trạng pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh của Việt Nam và quốc tế.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của các cấp, các ngành và toàn xã hội, cùng với sự cố gắng, nỗ lực của ngành y tế, công tác khám bệnh, chữa bệnh của nước ta trong thời gian vừa qua đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, với sự phát triển của kinh tế – xã hội, trước nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân và diễn biến ngày càng phức tạp của mô hình bệnh tật trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhiều vấn đề mới đã nảy sinh làm cho nhiều quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh của nước ta hiện không còn phù hợp cần được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới. Do vậy, việc xây dựng Dự án Luật khám bệnh, chữa bệnh là hết sức cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh, cũng như phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế.
(LUATMINHKHUE.VN: Biên tập.)