Mục lục bài viết
Ở Việt Nam, hoạt động công chứng mới chỉ được khôi phục và tiếp tục hoạt động hơn hai mươi năm qua. Vì vậy, trong nhận thức chung của cá nhân, tổ chức về công chứng và nghề công chứng đang được từng bước nâng cao, ổn định và đi vào chiều sâu.
Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày các nội dung chính sau:
- Khái quát về nghề công chứng.
- Công chứng là gì?
- Công chứng viên là gì?
- Nghề công chứng có vị trí và đặc trưng gì?
1. Khái quát về nghề công chứng
1.1 Công chứng là gì?
Cuộc sống của con người trong xã hội là sự tổng hòa của nhiều mối quan hệ, trong đó những quan hệ về giao dịch dân sự được diễn ra hàng ngày giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, giữa các chủ thể đều là tổ chức. Việc mua bán, trao đổi tài sản nói chung không chỉ được thực hiện thông qua quan hệ giao tiếp, giao dịch miệng mà còn cao hơn là các hình thức giao dịch bằng văn bản. Người có tài sản hoặc có quyền liên quan đến tài sản, theo quy định của Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 (dưới đây xin gọi tắt là Bộ luật Dân sự năm 2015) có quyền định đoạt tài sản theo nhiều hình thức bằng văn bản như: Hợp đồng mua bán, tặng cho, thế chấp, để lại thừa kế qua di chúc, văn bản khai nhận di sản hoặc thỏa thuận phân chia di sản v.v...Các giao dịch đó phải được xác lập và thực hiện theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Một số hợp đồng, giao dịch liên quan đến việc định đoạt tài sản mà pháp luật quy định bắt buộc phải được công chứng hoặc chứng thực thì các bên tham gia giao dịch phải thực hiện, không thể làm trái quy định (các hợp đồng, giao dịch về chuyển nhượng quyền sử dụng đất; chuyển nhượng quyền sử đụng đất và tài sản gắn liền với đất; các hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển quyền sử dụng đất ở; các hợp đồng thế chấp tài sản; tặng cho tài sản; hợp đồng mua bán tài sản khác mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký sở hữu ...).
Mặt khác, theo quy định của pháp luật về dân sự nói chung và quy định của Luật Công chứng nói riêng, các hợp đồng, giao dịch dân sự được thực hiện theo nguyên tắc chung, cơ bản là phải có sự bình đẳng, tự nguyện về ý chí trong thỏa thuận, đảm bảo về năng lực hành vi dân sự của các bên tham gia giao kết hợp đồng; đồng thời, các hợp đồng giao dịch phải có mục đích, nội dung không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Ngoài các hợp đồng, giao dịch bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực, các giao dịch khác do các bên thỏa thuận và yêu cầu công chứng nếu đáp ứng các quy định nêu trên của pháp luật thì vẫn được công chứng.
Một công việc khác cũng được quy định trong thẩm quyền công chứng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đó là việc công chứng bản dịch các giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. Thực tế, đây không phải là công việc mới mà công chứng viên phải thực hiện. Trước đây, tính đến ngày 01 tháng 7 năm 2007, thẩm quyền công chứng bản dịch đã được giao cho công chứng thông qua quy định tại các Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1992 về tổ chức và hoạt động Công chứng Nhà nước (dưới đây xin gọi tắt là Nghị định số 45/HĐBT), Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 về tổ chức và hoạt động Công chứng Nhà nước (dưới đây xin gọi tắt là Nghị định số 31/CP), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 về công chứng, chứng thực (dưới đây xin gọi tắt là Nghị định số 75/NĐ-CP). Việc tổ chức và triển khai thực hiện công chứng bản dịch đã từng được các Phòng công chứng nhà nước (khi đó chưa có các Văn phòng công chứng) làm rất tốt. Chỉ tính riêng các Phòng công chứng tại thành phố Hà Nội trong thời gian thực hiện theo quy định của các Nghị định nêu trên, hàng năm đã công chứng được hàng chục ngàn việc dịch giấy tờ, vãn bản.
Luật Công chứng số 53/2014/QH13 (dưới đây xin gọi tắt là Luật Công chứng năm 2014 có hiệu lực đến này 1/7/2025 - Sau ngày này sẽ áp dụng Luật công chứng năm 2024) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đã quy định tại Điều 61 về công chứng bản dịch. Theo đó, quy định về người dịch phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc tốt nghiệp đại học khác mà thông thạo ngoại ngữ cần dịch; quy định về cách thức thực hiện công chứng bản dịch và nội dung lời chứng trong bản dịch của công chứng viên, về nguyên tắc chung, nội dung các giấy tờ muốn yêu cầu công chứng bản dịch cũng phải đảm bảo tính hợp pháp, nội dung không trái đạo đức xã hội.
Việc công chứng các hợp đồng, giao dịch và công chứng bản dịch phải do công chứng viên làm việc tại một tổ chức hành nghề công chứng thực hiện.
Vậy, công chứng là gì?
Khoản 1, Điều 2 Luật Công chứng quy định: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
1.2 Nghề công chứng là gì?
Khái niệm về nghề: Một loại công việc đòi hỏi có những điều kiện nhất định bao gồm kỹ năng chuyên môn, cách thức thực hiện, xử lý tình huống và được người có khả năng lao động thực hiện chuyên nghiệp hàng ngày thì loại công việc đó được coi như một nghề. Thật vậy, trong xã hội có rất nhiều nghề khác nhau ví dụ như: nghề xây dựng, nghề làm vườn, nghề nông, nghề làm sành sứ đến các nghề như y, dược...Ngày nay, việc chuyên môn hóa cao hơn trong công tác phục vụ gia đình, người ta còn gọi người giúp việc là người làm nghề nội trợ.
Khái niệm về nghề công chứng:
Trước đây, trong lĩnh vực công chứng, khi nhìn nhận đến công việc công chứng viên thực hiện (công chứng) mọi người thường cỏ cách đặt vấn đề coi đó là nhiệm vụ công chứng, công tác công chứng. Kể từ khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11 (dưới đây gọi tắt là Luật Công chứng năm 2006) được ban hành và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2007 thì công việc về công chứng được xác định là một nghề. Tại Điều 1 về Phạm vi điều chỉnh của Luật Công chứng năm 2006 viết: “Luật này quy định về phạm vi công chứng, công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng và quản lý nhà nước về công chứng”.
Tại Thông tư số 11/TT-BTP ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ Tư pháp ban hành bản Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, viết: “Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu công chứng”.
Như vậy, nghề công chứng có vai trò, vị trí quan trọng trong xã hội.
2. Các đặc trưng cơ bản của nghề công chứng
Nghề công chứng có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất: Một xã hội văn minh, phát triển ngoài các tiêu chí khác còn được thể hiện ở một nền kinh tế phát triển và ổn định, trình độ dân trí cao, hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn thiện.. .đặc biệt, cá nhân, tổ chức khi có các quan hệ giao dịch dân sự đều có ý thức tuân thủ theo luật pháp nhằm đảm bảo sự an toàn pháp lý và đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Ở các nước có nền công chứng phát triển (ví dụ như ở Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức...) cho thấy các giao dịch về bất động sản, thương mại và giao dịch dân sự khác trong xã hội của cá nhân, tổ chức đều được công chứng. Họ coi văn bản công chứng về thực chất như một văn bản vừa có giá trị thi hành đối với các bên, vừa có giá trị phòng ngừa vi phạm pháp luật trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được các bên thỏa thuận. Mỗi khi có ý định tham gia một giao dịch dân sự, cá nhân, tổ chức thường tin tưởng và tìm đến công chứng viên để được tư vấn và giúp đỡ.
Xét về mặt bản chất vấn đề, việc công chứng một hợp đồng, giao dịch thực chất là việc làm của công chứng viên nhằm chứng nhận:
- Tính xác thực, tính hợp pháp của quan hệ giao dịch đó là có diễn ra giữa các bên.
- Tính xác thực về năng lực hành vi dân sự của người tham gia giao dịch tại thời điểm giao dịch được đảm bảo theo quy định của pháp luật.
- Tính xác thực về ý chí tự nguyện thông qua việc thỏa thuận của các bên.
- Việc ký và điểm chỉ của các bên trong văn bản là do chính họ (người có tên, giấy tờ cá nhân và địa chỉ ghi trong văn bản) thực hiện.
- Về nội dung, mục đích của hợp đồng, giao dịch không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ hai: Văn bản công chứng có giá trị để thi hành; đó cũng là điều mong muốn của các bên tham gia giao dịch. Nhìn chung, các giao dịch dân sự trong cuộc sống diễn ra rất nhiều và đa dạng. Người tham gia giao dịch đều muốn giao dịch của mình thành công và an toàn pháp lý. Những mong muốn đó, thông qua việc hành nghề của công chứng viên sẽ đáp ứng được cho họ.
Vì vậy, một xã hội đã và đang phát triển cũng đều cần đến vai trò của công chứng.
Thứ ba: Nghề công chứng là một nghề mang tính chuyên nghiệp cao.
Thông thường, bất cứ nghề nghiệp nào cũng đòi hỏi tính chuyên nghiệp. Tuy nhiên, nghề công chứng có những yêu cầu khắt khe hơn. Tính chuyên nghiệp của nghề công chứng thể hiện thông qua:
- Người hành nghề công chứng là người được Nhà nước bổ nhiệm (trao cho họ quyền được công chứng các hợp đồng, giao dịch) theo tiêu chuẩn, trình tự và thủ tục do luật định. Pháp luật còn quy định về các quyền và nghĩa vụ của người được bồ nhiệm công chứng viên trong hành nghề công chứng.
- Người hành nghề công chứng phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng do mình công chứng.
- Đảm bảo tính khách quan, trung thực trong hành nghề.
- Người hành nghề phải nghiên cứu giải quyết các yêu cầu công chứng một cách thận trọng, tỷ mỉ, chính xác, đúng quy định của pháp luật. Từ hoạt động thực tiễn cho thấy nghề công chứng là một nghề tiềm ẩn nhiều rủi ro. Một sự thật đích thực về hồ sơ hay về ý chí tự nguyện của các bên tham gia giao dịch không phải trường hợp nào cũng dễ xác định. Người hành nghề phải có kinh nghiệm tích lũy qua thời gian, kèm theo những hiểu biết sâu về luật pháp và có cả kinh nghiệm trong việc xem xét và nhận biết trạng thái tâm lý của người mà mình giao tiếp trong quá trình thực hiện công chứng.
đ) Hoạt động công chứng phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật, thông qua đó người hành nghề thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích Nhà nước không bị xâm hại. Ngoài việc tuân thủ đạo luật gốc là Hiến pháp, các Bộ luật, đặc biệt là pháp luật dân sự, người hành nghề phải bám sát, tôn trọng và thực hiện đúng, chính xác luật chuyên ngành công chứng và pháp luật có liên quan. Công chứng với tư cách là một nghề, có tính độc lập tương đối trong tác nghiệp và chỉ tuân theo luật pháp; tuy nhiên, trong hoạt động nghề nghiệp, người hành nghề còn thường xuyên có các mối quan hệ công việc với các ngành, các cơ quan khác để đảm bảo chắc chắn, sự chính xác trong nghiên cứu và giải quyết các yêu cầu công chứng.
- Ngoài việc tuân thủ pháp luật, người hành nghề còn chịu sự điều chỉnh và thực hiện nghiêm quy định trong bản Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng được ban hành kèm theo Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ Tư pháp.
Thứ tư: Sau một việc công chứng của công chứng viên, ta có văn bản công chứng. Khoản 3 - Điều 5 Luật Công chứng quy định: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng
không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên vô hiệu”. Như vậy, văn bản công chứng (hợp đồng, giao dịch giữa các bên lập và ký kết đã được công chứng viên ký và đóng dấu của tố chức hành nghề công chứng) là văn bản có giá trị chứng cứ trước pháp luật. Trên cơ sở đó, Tòa án áp dụng pháp luật để xem xét và giải quyết việc tranh chấp hợp đồng (nếu có phát sinh). Mặt khác, văn bản công chứng cũng có giá trị để buộc các bên tham gia giao dịch phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận theo các điều khoản ghi trong hợp đồng, giao dịch.
Do đó, hoạt động công chứng cũng được coi là một hoạt động mang tính chất bổ trợ tư pháp.
Thứ năm: Hoạt động hành nghề công chứng cung cấp dịch vụ công.
Thông qua hoạt động của người hành nghề công chứng, các quan hệ về dịch vụ được xác lập và thực hiện. Các hoạt động dịch vụ có liên quan đến công chứng bao gồm thu thập thông tin nhằm củng cố hồ sơ, nộp thuế thay chủ sở hữu tài sản, thực hiện thủ tục đăng ký sang tên... được thực hiện rất chuyên nghiệp và đem lại hiệu quả cao, giúp cho cá nhân, tổ chức có yêu cầu công chứng (dưới đây xin gọi tắt là người yêu cầu công chứng) rất thuận tiện khi có yêu cầu cần đến công chứng. Mỗi khi cá nhân, tổ chức có yêu cầu về việc mua, bán tài sản họ đến với công chứng. Công chứng viên là người giải quyết tất cả các vấn đề thuộc yêu cầu của khách hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi hoàn thành việc công chứng. Để thực hiện cung cấp dịch vụ công đạt chất lượng cao, yêu cầu chung là phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và ý thức công dân trong thực thi luật pháp cao, cộng với sự thuần thục, chuyên nghiệp trong xử lý các tình huống phát sinh trong công việc của tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên.
Hiện nay, ở Việt Nam một số hoạt động dịch vụ để tiến đến việc công chứng hoặc sau công chứng đang được thực hiện ở hoạt động của các Văn phòng công chứng. Tại các Phòng công chứng, các hoạt động dịch vụ chỉ thực hiện ở một số việc như soạn thảo văn bản, chụp giấy tờ, thực hiện việc công chứng ngoài trụ sở (theo quy định của Luật Công chứng).
Luật Minh Khuê (tổng hợp và phân tích từ các nguồn trên internet)