Mục lục bài viết
- 1. Sự hình thành của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
- 2. Các khái niệm trong nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
- 3. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
- 4. Ngoại lệ của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
- 4.1. Quốc gia bị hạn chế chủ quyền:
- 4.2. Quốc gia tự hạn chế quyền hạn của mình
- 5. Ưu điểm và hạn chế của nguyên tắc
- 5.1. Ưu điểm
- 5.2. Hạn chế
1. Sự hình thành của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
Luật quốc tế thời kỳ cổ đại coi chiến tranh là phương thức giải quyết xung đột và chia lại thị trường thế giới cho đến sau Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, nhà nước Nga Xô Viết đã thừa nhân tất cả các quốc gia trên thế giới đều bình đẳng về chủ quyền. Từ đó nội dung pháp lý của nguyên tắc này đã được nâng lên và hoàn thiện theo đúng ý nghĩa pháp lý của nó.
Liên Hợp Quốc ra đời năm 1945 đã lấy nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia làm cơ sở cho hoạt động của mình. Đến năm 1970, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc một lần nữa khẳng định và ghi nhận một cách đầy đủ nội dung pháp lý của nguyên tắc này trong Tuyên bố ngày 24/10/1970.
2. Các khái niệm trong nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
Tại tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế trong Nghị quyết năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã giải thích nội hàm của nguyên tắc này như sau: “Tất cả các Quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền. Các Quốc gia bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, và là thành viên bình đẳng của cộng đồng quốc tế, bất kể khác biệt về kinh tế, xã hội, chính trị hay các khác biệt khác”. Ở dây có hai khái niệm cần làm rõ là chủ quyền và bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia.
- Chủ quyền là thuộc tính chính trị - pháp lý không thể tách rời của một quốc gia, là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
+ Quốc gia có quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của mình thể hiện chủ yếu thông qua việc thực hiện thẩm quyền mang tính hoàn toàn, tuyệt đối và riêng biệt. Tính hoàn toàn và tuyệt đối thể hiện qua hai phương diện quyền lực và vật chất. Ở phương diện quyền lực: Quốc gia có quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ, có quyền quyết định đường lối phát triển của đất nước, lựa chọn các phương thức phù hợp để thực hiện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội; có quyền thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thông qua hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương; thực hiện thẩm quyền với mọi cá nhân, tổ chức đang hoạt động trên lãnh thổ quốc gia. Ở phương diện vật chất: Quốc gia có quyền khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên nằm phía trong biên giới quốc gia; quốc gia thực hiện quyền lực của mình một cách đầy đủ, trọn vẹn trên cơ sở tôn trọng lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên vùng lãnh thổ đó đồng thời phù hợp với các quyền dân tộc cơ bản. Tính riêng biệt thể hiện ở chỗ quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền sử dụng lãnh thổ của mình và thực hiện quyền lực trên lãnh thổ đó. Các quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng không được áp đặt quyền lực của họ và không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia này.
+ Quốc gia hoàn toàn độc lập, không lệ thuộc vào bất kỳ chủ thể nào trong việc tham gia vào một quan hệ pháp luật quốc tế cụ thể. Việc ký kết các Điều ước quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao lãnh sự hay gia nhập các tổ chức quốc tế là những biểu hiện điển hình của việc thực hiện chủ quyền đối ngoại của quốc gia.
- Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia: Bình đẳng được đề cập đến trong nguyên tắc này không được hiểu theo nghĩa là ngang bằng nhau về tất cả các quyền và nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ mà Tuyên bố năm 1970 đề cập đến ở đây là các quyền và nghĩa vụ cơ bản theo theo tập quán quốc tế chung và các nguyên tắc pháp luật chung - những nguồn có giá trị pháp lý phổ quát. Bởi lẽ mỗi quốc gia chịu ràng buộc bởi các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau, tùy thuộc vào số lượng và nội dung các điều ước quốc tế mà từng quốc gia ký kết. Tuy nhiên các quyền và nghĩa vụ cơ bản đó phải được đặt trong sự tương xứng nhau. Đi vào cụ thể quyền phủ quyết (Veto) trong Liên Hợp Quốc ta sẽ thấy rõ điều này, theo đó để thông qua những vấn đề thông thường cần có 9/15 phiếu thuận của bất kỳ thành viên nào trong Hội đông bảo an Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên đối với những vấn đề không thông thường thì trong 9 phiếu này phải có 5 phiếu thuận của 5 ủy viên thường trực là Anh, Mỹ, Pháp, Nga và Trung Quốc thì mới hợp lệ. Nếu có 1 trong 5 ủy viên thường trực phản đối thì nghị quyết đó sẽ không được thông qua. Quy định trên đây không tạo ra sự bất bình đẳng cũng như vi phạm nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế bởi lẽ nó được xây dựng dựa trên sự đồng ý tự nguyện của các quốc gia còn lại. Hơn nữa song song với quyền lợi được hưởng năm quốc gia này cũng phải gánh vác những trách nhiệm tương đương.
3. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
Nội dung của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia gồm:
- Tất cả các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý.
- Mỗi quốc gia được hưởng các quyền xuất phát từ chủ quyền.
- Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của quốc gia khác.
- Sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của quốc gia là bất khả xâm phạm.
- Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của mình.
- Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tuân thủ một cách đầy đủ và có thiện chí các nghĩa vụ quốc tế của mình và chung sống trong hòa bình với các quốc gia khác.
4. Ngoại lệ của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
4.1. Quốc gia bị hạn chế chủ quyền:
Đây là trường hợp mà các chủ thể họ bị áp dụng các biện pháp chế tài hoặc sự trừng phạt quốc tế do có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế.
Ví dụ vào năm 1990, Irắc xâm chiếm Cô oét – một nước láng giềng nhỏ nhưng giàu dầu mỏ và hai ngày sau tuyên bố Cô oét là một phần của Irắc. Trước hành vi phá hoại sự hòa bình quốc tế, Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đã sử dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề nhất để hạn chế chủ quyền của quốc gia này như cấm vận gần như hoàn toàn về buôn bán và tài chính; bị giám sát các nguồn thu từ dầu mỏ và các nguồn thu khác; bị áp đăt chương trình “Đổi dầu lấy lương thực”,…
Hay như năm 2001 sau khi Liên Hợp Quốc phát hiện cựu tổng thống Chales Taylor của Liberia đã bán kim cương để tài trợ cho các cuộc xung đột dân cư trong nước và tại các nước khác ở Tây Phi, thì Liên Hợp Quốc đã áp dụng các biện pháp như cấm nhập khẩu, cấm vận vũ trang, cấm đi lại, đóng băng tài khoản,…đối với quốc gia này.
4.2. Quốc gia tự hạn chế quyền hạn của mình
Đây là trường hợp mà quốc gia tự lựa chọn vì lợi ích của mình mà họ tự hạn chế chủ quyền của mình bằng cách trao quyền cho một chủ thể khác để thay mặt họ trong các hoạt động liên quan đến lợi ích quốc gia. Ví dụ như Công quốc Mônacô cho phép Pháp thay mặt họ trong mọi quan hệ đối ngoại, dù nó là một quốc gia độc lập, có chủ quyền
Hoặc các quốc gia đó tự mình hạn chế quyền hạn tham gia vào các tổ chức quốc tế. Trong những trường hợp đó quốc gia tự thu hẹp chủ quyền và không vi phạm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia. Trong nhiều thế kỷ, quốc gia bé nhỏ bên dãy núi Alps mang tên Thụy Sĩ đã kiên định với một chính sách quốc phòng trung lập trong các vấn đề toàn cầu. Thụy Sĩ không phải là quốc gia trung lập duy nhất của thế giới – các quốc gia như Ireland, Áo và Costa Rica đều giữ lập trường không can thiệp tương tự, nhưng Thụy Sĩ vẫn là quốc gia trung lập lâu đời nhất và có uy tín nhất. Quốc gia này chưa bao giờ gia nhập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) hay Liên minh châu âu, và chỉ mới gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 2002.
5. Ưu điểm và hạn chế của nguyên tắc
5.1. Ưu điểm
Trong giai đoạn hiện nay, đại đa số các quốc gia trên thế giới đều tuân thủ nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, đồng thời lên án các hành vi vi phạm nguyên tắc này. Điều này thể hiện ở việc các quốc gia khi tham gia vào các quan hệ quốc tế họ tự thỏa thuận với nhau về các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia. Một quốc gia cùng lúc có thể tham gia nhiều tổ chức khác nhau. Khi tham gia các tổ chức này, các quốc gia tự nguyện trao cho các tổ chức đó một số thẩm quyền thuộc chủ quyền của mình để tổ chức đó thực hiện các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là quốc gia bị hạn chế về chủ quyền.
Ví dụ Điều 2, Hiến chương ASEAN khẳng định: Tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia thành viên; Cùng cam kết và chia sẻ trách nhiệm tập thể trong việc thúc đẩy hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở khu vực; Không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia thành viên ASEAN; Tôn trọng quyền của các quốc gia thành viên được quyết định vận mệnh của mình mà không có sự can thiệp, lật đổ và áp đặt từ bên ngoài. Đây là một trong những nguyên tắc làm nền tảng cho các quốc gia ASEAN trong quan hệ quốc tế với nhau và cả trong quan hệ quốc tế với các quốc gia ngoài khối ASEAN. Mục tiêu mà ASEAN hướng tới không phải là xây dựng một tổ chức siêu quốc gia có quyền lực bao trùm lên chủ quyền quốc gia của các nước thành viên. Trái lại, với tư cách một tổ chức liên chính phủ, mọi quyết định của ASEAN đều có sự tham gia đóng góp của các nước thành viên dựa trên cơ sở bình đẳng về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi. Mục tiêu cao nhất của ASEAN hiện nay là tiếp tục thúc đẩy hội nhập khu vực sâu rộng hơn nữa, thể hiện ở nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN “mở, năng động và tự cường” dựa trên ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội. Do vậy, trong quá trình này, các nước thành viên tiếp tục là các chủ thể bình đẳng về chủ quyền, có nghĩa vụ và quyền lợi bình đẳng như đã cam kết và thống nhất trong việc thực hiện các chương trình hành động cụ thể nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng cộng đồng.
Hay khi tham gia vào Công ước về Luật Biển năm 1982, các quốc gia đã thảo luận trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và nhất trí ghi nhận Điều 87: “Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các quy định của Công ước và những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này bao gồm: Tự do hàng hải; tự do hàng không; tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm; tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép; tự do đánh bắt hải sản; tự do nghiên cứu khoa học (khi thực hiện các quyền tự do trên phải tuân thủ các quy định có liên quan của Công ước). Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện quyền tự do trên biển cả của các quốc gia khác và các quyền được Công ước thừa nhận liên quan.”
5.2. Hạn chế
Mặc dù nguyên tắc này bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia đã xuất hiện từ lâu đời nhưng thực tiễn quốc tế ghi nhận rất nhiều các trường hợp vi phạm nguyên tắc một cách trắng trợn. Năm 2003, Mỹ lấy các lý do như “can thiệp nhân đạo”, “truyền bá dân chủ” hay “đánh đòn phủ đầu để đảm bảo an ninh” để sử dụng vũ lực xâm lược I-rắc mà không có sự cho phép của Liên Hợp Quốc tạo ra sự lo ngại sâu sắc trong cộng đồng quốc tế. Hay Pa-kít-xtan bao che, tạo điều kiện cho các phần tử khủng bố tấn công vào lãnh thổ Ấn Độ, đặc biệt là cuộc tấn công đẫm máu vào thành phố Mumbai cuối năm 2008. Nhà nước Taliban ở Áp-ga-ni-xtan cũng đã từng bị tố cáo che chở và nuôi dưỡng mạng lưới khủng bố Al Qeada - những kẻ chủ mưu và thực hiện vụ tấn công đẫm máu 11/9 tại Mỹ năm 2001. Hay như năm 2014, Cơ quan chức năng Việt Nam phát hiện giàn khoan nước sâu Hải Dương 981 và 03 tàu dịch vụ dầu khí của phía Trung Quốc ở cách bờ biển Việt Nam 130 hải lý để tiến hành khoan thăm dò thềm lục địa của Việt Nam đồng thời huy động nhiều tàu bảo vệ đi cùng. Các tàu này đã cố tình đâm, va vào tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư của Việt Nam đang hoạt động chấp pháp tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gây thiệt hại về người và tài sản. Những hành động trên của Trung Quốc đã bất chấp luật pháp quốc tế, vi phạm chủ quyền của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng Điều 58 và Điều 77 Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà chính Trung Quốc là quốc gia thành viên. Hành động này cũng đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một bên tham gia ký kết. Đây không phải lần đầu tiên Trung Quốc có những hành vi thiếu tinh thần hợp tác, không thiện chí với các quốc gia khác như thế này. Trước đó, Trung Quốc đã từng từ chối tham gia Ủy hội Sông Mê-kông và quyết định xây nhiều con đập trên thượng nguồn con sông mà không qua tham vấn ý kiến của các quốc gia sử dụng chung dòng sông điều này tác động mạnh mẽ đến môi trường sinh thái ở khu vực và cuộc sống của hàng triệu người dân sống trong lưu vực của con sông ở Lào, Thái Lan, Căm-pu-chia, Myanmar và Việt Nam. Trung Quốc cũng từng bị phê phán trên toàn cầu vì thực hiện chính sách khai thác tài nguyên ở các quốc gia khác, đặc biệt là ở châu Phi, bất chấp những hậu quả xã hội và môi trường nghiêm trọng cho các cộng đồng sở tại.
Luật Minh Khuê (tổng hợp)