1. Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam

Trong bất cứ thể chế chính trị nào, Đảng cầm quyền đều có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị, liên quan đến thực thi quyền lực của Đảng cầm quyền, đến sự ổn định và phát triển xã hội. Đảng cầm quyền là chủ thể đề ra các định hướng, chủ trưong trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là những căn cứ để Nhà nước hoạch định, xây dựng và ban hành các chính sách thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

Ở nước ta, các định hướng về chính sách xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nhằm vào thực hiện các mục tiêu xã hội như:

1.1. Tạo động lực với sự phát triển xã hội

Cương lĩnh của Đảng đã ghi rõ: “Chính sách xã hội đứng đắn về hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Để phát triển và đạt tới trình độ ngày càng cao của tiến bộ và văn minh, xã hội phải phát hiện và khai thác được những động lực nội tại của mình. Đó là những nhân tố vật chất và tinh thần, kinh tế và xã hội, khoa học và văn hóa cùng nhiều nhân tố khác mà dưới tác động tích cực của quản lý (thông qua tổ chức, cơ chế, chính sách) có thể liên kết, phối họp chúng với nhau tạo nên hợp lực, hướng vào sự phát triển. Tham gia vào quá trình ấy, chính là chính sách xã hội và hiệu quả của việc giải quyết các vấn đề xã hội có thể tạo nên không chỉ sự ổn định, sự phát triển lành mạnh các quan hệ xã hội mà còn thúc đẩy sự phát triển sản xuất, sự phồn vinh kinh tế của đất nước. Do đó, chính sách xã hội chỉ đóng vai trò động lực của sự phát triển nếu đó là những chính sách đúng đắn, thể hiện được nguyên tắc công bằng, dân chủ và nhân đạo. Những nguyên tắc đó cho thấy trung tâm chú ý của xã hội và đối tượng phục vụ của các chính sách của nó là người lao động. Ngược lại, nếu chính sách xã hội sai lầm hoặc lạc hậu so với thực tiễn đã bị biến đổi, hoặc không phù hợp với trình độ thực tế của nền kinh tế, nó có thể phát sinh các mặt tiêu cực, kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất và làm mai một tiềm năng xã hội.

1.2. Đặt con người vào vị trí trung tâm, xem con người là nguồn lực quan trọng nhất

Năm 2010, nước ta có khoảng 87 triệu người với khoảng hơn 45 triệu người trong độ tuổi lao động. Năm 2019, dân số nước ta là hơn 90,2 triệu người, với khoảng trên 48 triệu người trong độ tuổi lao động. Để khai thác được nguồn nhân lực hiệu quả, các chính sách xã hội được Đảng quan tâm đặc biệt như chính sách nâng cao dân trí, đào tạo chuyên môn kỹ thuật, chính sách tạo việc làm và hỗ trợ việc làm...trở thành những chính sách ưu tiên trong hệ thống chính sách xã hội, thấy triển vọng phát triển tro tương lai. Hệ thống chính sách, pháp luật ấy tạo cho con người tâm trạng yên tâm, sự an toàn, an ninh cá nhân trong cuộc sống với tư cách là một thành viên của xã hội. Con người cần được bảo vệ bằng pháp luật cũng như có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, được tham gia và có những điều kiện để tham gia có hiệu quả các công việc quản lý xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển xã hội.

1.3. Các định hướng của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề xã hội trong giai đoạn đổi mới

Các định hướng của Đảng từng bước được thể hiện phương hướng đổi mới như cải cách khu vực nhà nước, tách công việc của Nhà nước ra khỏi doanh nghiệp, tách hành chính khỏi kinh doanh... Doanh nghiệp các loại hình sở hữu bình đẳng trước pháp luật, tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phân phối thu nhập. Trong định hướng phát triển các vấn đề xã hội của Đảng đều hướng tới những yêu cầu mà tiến trình đổi mới và dân chủ hóa mà xã hội đang đặt ra. Khả năng ổn định xã hội để đổi mới và đổi mới để phát triển xã hội, tùy thuộc phần: đoàn kết dân tộc, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, kế hoạch hóa dân số, thực hiện dân quyền và đảm bảo công bằng xã hội, giảm nghèo, giảm thiểu các tệ nạn xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục đào tạo, bảo vệ môi trường sinh thái.

2. Vai trò của nhà nước pháp quyền

Trong một quốc gia, Nhà nước có chức năng quan trọng như: tổ chức và quản lý xã hội; bảo đảm ổn định chính trị an ninh, an toàn xã hội; bảo vệ tự do, quyền, lợi ích chính đáng của công dân; bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, mở rộng quan hệ đối ngoại. Trong quản lý xã hội, Nhà nước ban hành các chính sách xã hội, tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích và bằng pháp quyền của bộ máy Nhà nước đối với các quá trình xã hội, các hành vi hoạt động của công dân và mọi tổ chức trong xã hội nhằm duy trì và củng cổ trật tự xã hội, bảo toàn, củng cố và phát triển quyền lực Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các chính sách xã hội thể hiện ở các góc độ như:

- Tổ chức nghiên cứu, hoạch định chính sách xã hội

- Xây dựng bộ máy quản lý, tổ chức thực hiện, ban hành cơ chế phối hợp trong thực thi chính sách xã hội;

- Giám sát, thanh tra, kiểm tra, sửa đổi chính sách xã hội nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện.

Nhà nước xây dựng và ban hành, áp dụng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực của chính sách xã hội nhằm phát huy những ưu thế và khắc phục những hạn chế của thị trường (như khủng hoảng kinh tế có chu kỳ, nghiệp, vấn đề môi trường, vấn đề dân số, vấn đề bảo đảm an ninh. Nhà nước thực hiện việc can thiệp, tác động vào phân phối thu nhập để tránh những bất ổn chính trị - xã hội, tạo ra một xã hội công bằng. Nhà nước xây dựng, ban hành các chính sách xã hội nhằm xây dựng lối sống tốt đẹp, tinh thần lành mạnh và đạo đức trong xã hội...

Để thực hiện tốt các công việc trên, với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, Nhà nước sử dụng công cụ quản lý để tác động lên khách thế, đối tượng quản lý. Các công cụ quản lý xã hội chủ yếu gồm:

- Chiến lược: Là hệ thống các đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm đưa hệ thống đạt đến những mục tiêu dài hạn. Về mặt vĩ mô, có thể hiểu chiến lược của nhà nước là hệ thống các đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm đạt đến các mục tiêu dài hạn. Nội dung của chiến lực bao gồm: 1) Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà hệ thống sẽ thực hiện trong một khoảng thời gian đủ dài; 2) Các mục tiêu dài hạn cơ bản của hệ thống, và 3) Các phương thức chủ yếu để đạt được những mục tiêu đó. Sau một giai đoạn chiến lược, hệ thống phải tới một trình độ phát triển vượt bậc với những mục tiêu đặc trưng cho trình độ này.

- Kế hoạch: Là tập họp có hệ chống và cụ thể về cách thức, trình tự, thời gian tiến hành những công việc dự định làm trong một thời gian và mục tiêu xác định. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, Nhà nước thực hiện công tác kế hoạch về thực hiện các chính sách xã hội nhằm định hướng xã hội, lựa chọn các mục tiêu xã hội chủ yếu, xây dựng các chính sách xã hội và cung cấp thường xuyên thông tin xã hội đã được xử lý nhằm định hướng, điều tiết hoạt động của các chủ thể. Kế hoạch thường bao gồm kế hoạch dài hạn 10 năm trở lên, trung hạn là 5 năm và ngắn hạn là hàng năm.

- Quy hoạch: Là sự bố trí, sắp xếp toàn bộ các nguồn lực theo một trình tự họp lý trong từng khoảng thời gian xác định làm cơ sở cho việc lập kế hoạch dài hạn. Ví dụ như Nhà nước xây dựng các quy hoạch về thực hiện chính sách xã hội liên quan đến các cơ sở cung cấp các dịch vụ xã hội, quy hoạch đào tạo cán bộ xã phường...

- Các chương trình mục tiêu xã hội: được xây dựng nhằm xác định đồng bộ các mục tiêu, các chính sách, quy trình thực hiện các nguồn lực cần thiết để thực hiện một mục đích nhất định của Nhà nước về chính sách xã hội. Chương trình mục tiêu xã hội xã hội cũng như các chương trình kinh tế khác thường hướng đến một nhóm đối tượng cụ thể, xác định các chủ thể liên quan có thể phối kết hợp trong quá trình triển khai, xác định cơ chế hình thành nguồn kinh phí. Các chương trình mục tiêu xã hội thường lớn và dài hạn như chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, chương trình bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân tộc chương trình mục tiêu quốc gia, hay các chương trình trung hạn nhằm đào tạo nhân viên công tác xã hội... Một chương trình lớn thường bao gồm nhiều chương trình bộ phận và được giao cho nhiều chủ thể khác nhau cùng thực hiện.

- Các dự án xã hội: Là sự cụ thể hóa, là hệ thống trợ giúp nhằm triển khai, thực thi các chương trình mục tiêu xã hội.

- Hệ thống pháp luật về các chỉnh sách xã hội: Pháp luật về chính sách xã hội là hệ thống quy tắc xử sự các vấn đề xã hội, có tính bắt buộc chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật về chính sách xã hội được thực hiện trong thời gian dài (thời gian có hiệu lực của chính sách). Hệ thống pháp luật này là do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí Nhà nước và được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tố chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế. Pháp luật có ba chức năng chủ yếu: chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ, chức năng giáo dục. Việc thực hiện pháp luật được tiến hành thông qua các hình thức chủ yếu như:

+ Tuân thủ pháp luật: Là hình thức có ở tất cả các chủ thể pháp luật như mỗi công dân, mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các nhà chức trách. Trong đó, chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn cấm (vi phạm pháp luật).

+ Thi hành pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể không những tuân thủ pháp luật mà còn thực hiện nghĩa vụ mà còn thực hiện nghĩa vụ một cách tốt hơn thông qua các hoạt động tích cực, có lợi cho Nhà nước và nhân dân. Chủ thể thi hành pháp luật là các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, mọi công dân và các nhà chức trách.

+ Sử dụng pháp luật: chủ thể pháp luật có thể thực hiện hay không thực hiện quyền pháp luật trao theo ý của mình chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Chủ thể sử dụng pháp luật bao gồm tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân.

+ Áp dụng pháp luật: Là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực của Nhà nước được thực hiện thông qua những cơ quan, các nhân có thẩm quyền, hoặc Nhà nước trao quyền theo trình tự, thủ tục do Nhà nước trao quyền theo trình tự, thủ tục do Nhà nước quy định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường họp cụ thể. Nói cách khác, đây là hoạt động vận dụng các quy định, chế tài của pháp luật vào giải quyết trường hợp cụ thể trong đời sống. Như vậy áp dụng pháp luật là hình thức luôn có sự tham gia của Nhà nước.

3. Đặc điểm nền kinh tế - xã hội của quốc gia

Đối với mỗi quốc gia trong từng thời kỳ đều có các đặc điếm kinh tế - xã hội mà khi hoạch định chính sách xã hội các chuyên gia cần phải tính đến. Các đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia có thể thích ứng với một hệ thống cính sách xã hội phù hợp, đảm bảo tính hệ thống, nhất quán, định hướng của các chính sách xã hội. Các chính sách xã hội phản ánh đặc điểm, khuynh hướng vận động của nền kinh tế - xã hội một quốc gia. Trên thế giới đã tồn tại các nền kinh tế cơ bản với các đặc điểm như:

- Nền kinh tế chủ nghĩa xã hội vận hành theo cơ chế chỉ huy tập trung với các chính sách xã hội mang tính bình quân như chế độ phân phối bình quân trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã... Tuy nhiên, do lực lượng sản xuất có trình độ thấp, năng suất lao động thấp nên các chính sách xã hội không có điều kiện để thực hiện, không tạo ra được động lực để phát triển.

- Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường lấy tăng trưởng kinh tế làm mục tiêu phát triển, với quy luật cạnh tranh và lợi nhuận, tạo ra động cơ thúc đẩy tính năng động của toàn xã hội... Tuy nhiên, bên cạnh các mặt tích cực cũng có mặt tiêu cực của nó là các vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế, tình trạng thất nghiệp trong khủng hoảng kinh tế chu kỳ... Do đó, vai trò của các chính sách xã hội như chính sách trợ cấp, phúc lợi, bảo hiểm xã hội...có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội.

- Nền kinh tể với mô hình “xã hội dân chủ” của Thụy Điển và mô hình “cơ chế thị trường - xã hội” của Cộng hòa Liên bang Đức bao gồm các đặc trưng có tác động đến hệ thống chính sách xã hội là phát huy được cao độ tính năng động của cơ chế thị trường, lấy tăng trưởng kinh tế làm mục tiêu phát triển. Mặt khác, bằng những thiết chế quản lý, luật pháp, Nhà nước giữ vai trò “điều hòa” xã hội thông qua việc phân phối lại tổng sản phẩm xã hội (GNP), phát triển phúc lợi công cộng, tạo ra những môi trường, cơ hội phát triển cho tất cả các thành viên ưong xã hội...

- Ở Việt Nam, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy tập trung sang nền kinh tế thị trường từ năm 1986, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng của nền kinh tế này là vừa kết hợp vận dụng cơ ché thị trường đế kích thích tăng trường kinh tế, vừa kết họp công cụ quản lý nhà nước để giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo công bằng xã hội, Nhà nước điều tiết vĩ mô, định hướng phát triển xã hội theo mục tiêu đặt ra.

4. Tính toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa là xu thế khách quan của phát triển xã hội loài người. Lần đầu tiên vào năm 1944, từ điển Merriam Webster đã công nhận động từ “toàn cầu hóa” (globalize) như một từ tiếng Anh có nghĩa. Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 1 năm 1999 đã khẳng định toàn cầu hóa không còn là một xu thế nữa, mà nó trở thành một thực tế mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho các quốc gia thông qua sự hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ ngoại giao của các quốc gia. Nhìn chung, có thể nói toàn cầu hóa là quá trình làm gia tăng các mối quan hệ, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Nó được xem như sự tự do hóa các hoạt động kinh tế và thương mại quốc tế với sự điều hành của Chính phủ từng quốc gia và các tổ chức quốc tế. Đặc điểm nổi bật của toàn cầu háo là sự dịch chuyển (còn gọi là “dòng chảy”) của 4 yếu tố: hàng hóa - dịch vụ; di cư - nhập cư con người; khoa học kỹ thuật và tiền tệ trong giai đoạn tự do thương mại.

Toàn cầu hóa ảnh hưởng tới các chính sách xã hội dưới các góc độ như:

4.1. Mặt tích cực

Toàn cầu hóa thúc đẩy mạnh mẽ và nhanh chóng việc phát triển và xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Từ đó, tạo ra khả năng tăng phát triển thị trường lao động của mỗi quốc gia và toàn thế giới, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người lao động và dân cư.

- Toàn cầu hóa kinh tế có tác động thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, giảm tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp và tăng lao động làm việc trong các ngành công nghiệp, dịch vụ. Chính nhờ vậy mà năng suất lao động xã hội tăng lên, trình độ nền kinh tế không ngừng được hiện đại hóa.

-Toàn cầu hóa đặt ra cho các nước nhiệm vụ phải tiến hành việc cải cách sâu rộng kinh tế, xã hội, phát triển nguồn nhân lực quốc gia để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kih tế.

-Toàn cầu hóa tạo ra môi trường thuận lợi cho di chuyển lao động phạm vi toàn thế giới, tạo cơ hội cho người lao động tìm được việc làm có thu nhập cao thông qua mở rộng xuất khẩu lao động, đầu tư trực tiếp nước ngoài...

-Toàn cầu hóa đòi hỏi hệ thống an sinh xẫ hội phải có những thay đổi phù hợp với thay đổi kinh tế và xã hội của mỗi nước. Trong quá trình hội nhập vào toàn cầu hóa, Chính phủ các nước phải thay đổi, bổ sung hệ thống luật pháp an sinh xã hội phù hợp với xu hướng chung của chính sách xã hội của thế giới. Nhờ đó, các vấn đề an sinh xã hội được thúc đẩy phát triển, đối tượng bao trùm của hệ thống an sinh xã hội được mở rộng, hiệu quả kinh tế, xã hội của hệ thống an sinh xã hội được nâng cao.

4.2. Mặt hạn chế

Bên cạnh những mặt tích cực không thể phủ nhận của toàn cầu hóa thì quá trình này còn đặt ra nhiều thách thức, hạn chế đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Toàn cầu hóa kéo theo sự gia tăng nhu cầu lao động trình độ cao ngay cả ở các quốc gia chậm phát triển để thích ứng và làm chủ những dây chuyền công nghệ hiện đại - thành tựu chung của nhân loại.

Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, một bộ phận công nhân không đáp ứng được tiêu chuẩn về trình độ kỹ thuật trong bối cảnh mới đã trở thành người thất nghiệp. Mặt khác, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, nhiều đất nông nghiệp được thay bằng các khu công nghiệp, chế xuất khiến nhiều người nông dân không còn công cụ canh tác. Cùng với đó là tác động của quy luật phát triển không đồng đều của xã hội đã khiến cho sự bất bình đẳng về cơ hội ngày càng gia tăng, phân tầng và phân hóa giàu nghèo ngày càng diễn ra sâu sắc. vấn đề văn hóa du nhập văn hóa thế giới không được kiểm soát chặt chẽ làm cho đọa đức, lối sống của một bộ phận thanh thiếu niên bị tha hóa nghiêm trọng, đi ngược lại với những chuẩn mực truyền thống tốt đẹp trước đây.

Hậu quả của những vấn đề trên là tình trạng thất nghiệp, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường gia tăng, khoảng cách giàu nghèo bị đẩy xa hơn... Tất cả những điều đó làm nảy sinh ngày càng nhiều vấn đề xã hội bức xúc, ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội. Trước tình hình đó, Nhà nước thông qua chính sách xã hội phải có những giải pháp đảm bảo cơ hội cho những hộ gia đình nghèo, người yếu thế có cơ hội cải thiện thu nhập, mức sống, tránh tình trạng bị bần cùng hóa do tác động của toàn cầu hóa.

Sự tác động của toàn cầu hóa làm gia tăng tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ở mỗi quốc gia. Do đó, với mỗi sự biến động về kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia, khu vực có thể tác động đến tất cả các nền kinh tế khác trên thế giới. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế có thể làm gia tăng tình trạng thất nghiệp, mất và giảm sút thu nhập của một bộ phận lực lượng lao động trong thời kỳ đó. Đây thực sự là những vấn đề xã hội bức xúc.

Như vậy, toàn cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, do đó trong xây dựng các chính sách xã hội cần quan tâm đến tất cả các khía cạnh xã hội, văn hóa...

5. Thực tiễn Việt Nam đã tiến hành thực hiện các chính sách xã hội từ năm 1986

Ngay khi bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước (1986), Đảng ta đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của chính sách xã hội gồm năm nội dung cơ bản, đó là(13): (i) kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động; (ii) thực hiện công bằng xã hội, lối sống có văn hóa; bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; (iii) chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân; (iv) xây dựng chính sách bảo trợ xã hội; (v) thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc.

Năm 1996, Việt Nam xác định rõ việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội phải dựa trên 5 nhóm quan điểm: (i) tăng tưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; (ii) thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, (iii) khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo; (iv) phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”; (v) các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.

Năm 2012, Đảng ta ban hành nghị quyết chuyên đề về “Một số vấn đềchính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, trong đó rút ra một trong 5 bài học kinh nghiệm cơ bản, quan trọng nhất, đó là: chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển. Năm 2015, Việt Nam đề ra định hướng lớn của chính sách xã hội là quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội.

Như vậy là, mô hình chính sách xã hội của Việt Nam đã được đổi mới từ mô hình đặc trưng cho cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình tương ứng với cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cách tiếp cận phát triển ngày càng thể hiện rõ trong các nguyên tắc xây dựng và vận hành hệ thống chính sách xã hội. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử xã hội cụ thể, chính sách xã hội ở nước ta tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, quan tâm thích đáng đến việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản, nhu cầu an sinh xã hội tối thiểu của các nhóm, các giai tầng xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.