1. Phân tích bài thơ Nỗi niềm tương tư mẫu 1

"Phân tích Nỗi niềm tương tư trong câu chuyện 'Bích câu kì ngộ'"

"Bích câu kì ngộ" là một câu chuyện thơ Nôm nổi tiếng, được viết theo thể thơ lục bát uyển chuyển, kể về một câu chuyện tình yêu đầy mộng mị giữa chàng Tú Uyên và nàng tiên nữ Giáng Kiều. Trong câu chuyện này, đoạn trích "Nỗi niềm tương tư" đặc biệt nổi bật, mô tả về tâm trạng tương tư của Tú Uyên sau khi gặp gỡ người đẹp tại chùa Ngọc Hồ.

Tú Uyên là một thư sinh nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Một lần, chàng đến thăm Bích Câu và bị cuốn hút bởi vẻ đẹp tuyệt vời của nơi đó, vì vậy anh quyết định ở lại đó để học hành suốt ngày đêm. Một ngày, khi trời chuyển sang mùa Xuân, Tú Uyên đi tham gia hội chùa Ngọc Hồ. Anh tình cờ nhặt được một chiếc "lá hồng" có ghi câu thơ trên đó. Khi anh chuẩn bị ghi lại câu thơ, bất ngờ một người thiếu nữ đẹp tuyệt vời xuất hiện trước cửa tam quan. Tú Uyên theo sau người thiếu nữ đó cho đến nơi gọi là Quảng Văn, nhưng sau đó không thấy bóng dáng của cô nàng đó nữa. Khi trở về nhà, Tú Uyên nhớ thương và tương tư mãi không ngừng.

Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!

Trong đoạn trích trên, ta có thể nhận thấy sự si tình của Tú Uyên. Chỉ với một lần nhìn, anh nhớ mãi và yêu sâu đậm. Tú Uyên si mê đến mức "ngơ ngẩn", thậm chí khi đèn đã cạn cháy, anh vẫn thao thức không thể ngủ được. Anh nghĩ về người phụ nữ đẹp đó có thể là một tiên nữ, và không biết khi nào mới có thể gặp lại cô ấy. Tình yêu trong mơ không chỉ hiện diện trong suy nghĩ của chàng thư sinh, mà còn được biểu đạt qua những cử chỉ:

Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những âm thanh vang vọng trong đêm, Tú Uyên tưởng tượng và tưởng niệm về tình yêu tuyệt vời mà anh mong muốn chia sẻ với người đẹp ấy.

Tú Uyên không chỉ tưởng tượng về những khoảnh khắc lãng mạn với người yêu trong tương lai, mà còn đau đớn vì không thể gặp lại người đó. Anh nhắc đến việc "gảy khúc đàn tranh" và "chuốc chén rượu đào", nhưng cả hai đều chỉ là ảo ảnh trong tâm trí anh. Tú Uyên cảm thấy như mơ màng, như say trong hương thơm của kỷ niệm, nhưng thực tế là anh cảm nhận được sự cô đơn và đau khổ của tình yêu không thể đạt được.

Đoạn thơ này thể hiện rõ nỗi niềm tương tư sâu sắc và tình yêu không thể thành danh của Tú Uyên. Anh khao khát được ở bên người đẹp ấy, nhưng cũng đau khổ vì không thể thực hiện ước mơ đó. Những cảm xúc này làm cho Tú Uyên trở nên tương tư, buồn bã và đau khổ.

"Bích câu kì ngộ" là một tác phẩm văn học lãng mạn, nơi tình yêu và tương tư được mô phỏng một cách tinh tế. Từ những trạng thái tình cảm phức tạp của nhân vật chính, đoạn trích "Nỗi niềm tương tư" đã thành công trong việc tạo ra một hình ảnh cảm xúc sâu lắng và đồng thời kết hợp với văn chương tinh tế để diễn đạt nổi niềm tương tư của Tú Uyên.

 

2. Phân tích bài thơ Nỗi niềm tương tư mẫu 2

Trong văn học Việt Nam, truyện thơ Nôm đã có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Vũ Quốc Trân, một nhà văn và nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ phát triển văn học Nôm, đã để lại nhiều tác phẩm quan trọng, góp phần trong việc phát triển nền văn học truyền thống. Trong số đó, tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ đáng chú ý với sự xuất hiện của đoạn trích Nỗi niềm tương tư, tạo nên một hình ảnh đẹp và sâu sắc về tình yêu và nhớ mong.

Trong đoạn trích này, tác giả đã sử dụng những từ ngữ tinh tế để miêu tả nỗi nhớ trong tâm hồn của nhân vật chính là Tú Uyên. Anh chàng không thể quên được cảnh tượng của người con gái tuyệt mỹ mà anh gặp ở chùa Ngọc Hồ. Tác giả mô tả tâm trạng của Tú Uyên như sau: "Ngơ ngẩn ra về", đèn thông đã cháy cạn nhưng anh vẫn thao thức, không thể ngủ được. Nỗi nhớ của Tú Uyên không chỉ là một ý nghĩ mà nó còn hiện hữu trong từng cử chỉ và hành động của anh. Đoạn trích Nỗi niềm tương tư cho thấy sự rõ ràng của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ. Tác giả sử dụng điệp ngữ "Có khi" để mô tả những hành động mà Tú Uyên thực hiện khi nghĩ về người con gái đó. Anh ta gảy khúc đàn tranh và chuốc chén rượu đào để thể hiện tình cảm của mình. Những hình ảnh này mang ý nghĩa biểu trưng, tượng trưng cho nỗi nhớ và khát vọng tương tư của Tú Uyên.

"Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya."

Tuy nhiên, Tú Uyên không biết chia sẻ, không biết nói cho ai nghe về những tâm tư của mình. Tác giả sử dụng từ "Ngổn ngang" để miêu tả trạng thái của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ. Anh cảm thấy cô đơn trong nỗi nhớ của mình. Dù có những cảnh vui xuân chung, nhưng nỗi nhớ trong lòng anh vẫn nặng. Tú Uyên trong đoạn trích này. Điều đó thể hiện rằng tình cảm tương tư của Tú Uyên không được đáp lại và anh cảm thấy một cách cô đơn trong nỗi nhớ.

Tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ của Vũ Quốc Trân là một trong những tác phẩm quan trọng trong văn học Nôm và đã góp phần quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ và văn hóa dân tộc.

 

3. Phân tích bài thơ Nỗi niềm tương tư mẫu 3

Nổi niềm tương tư là một nhan đề biểu hiện tâm trạng sâu sắc của nhân vật chính, Tú Uyên. Cụm từ "nỗi niềm" cho thấy rằng Tú Uyên đang trải qua những tâm tư, tình cảm riêng tư sâu thẳm. Từ "tương tư" thể hiện rằng Tú Uyên đang trong trạng thái nhớ nhung, mong muốn được gặp mặt người mình yêu. Người trong tâm trạng tương tư thường gợi lên những kỷ niệm, nỗi buồn sâu lắng. Như nhà thơ Nguyễn Bính đã nói, "Tương tư là bệnh của trời". Bệnh tương tư thường âm thầm, khó nói ra với ai, và "thuốc" chữa "bệnh" tương tư là được gặp mặt người mình yêu.

Khi Tú Uyên rời khỏi hội chùa Ngọc Hồ để trở về, đoạn thơ truyền đạt rõ ràng sự si tình của anh ta, chỉ vì một lần nhìn thấy một người con gái xinh đẹp, anh ta đã rơi vào một cuộc tương tư suốt đời:

"Khi trăng lên ngơ ngẩn rời đi: chàng trai đắm chìm trong tình yêu đối tác đến mức mơ màng."

"Đèn thông đã tắt, giấc mộng chưa thành hiện thực: dùng biểu tượng của giấc mộng hòe (như câu chuyện về Thuần Vu Phần uống say rồi nằm ngủ dưới gốc cây hòe, sau đó mơ thấy mình trở thành một người giàu có, khi tỉnh giấc phát hiện đó chỉ là giấc mộng). Đèn đã tắt nhưng anh ta vẫn thức suốt đêm, lúc nghĩ về cô gái, anh ta cảm thấy mơ màng và ngỡ rằng cuộc gặp gỡ đó như một giấc mộng vẫn ám ảnh tâm trí anh ta. Chừng nào giấc mơ chưa thành hiện thực, anh ta vẫn chưa thể ngủ yên."

"Không thể quên đi nỗi niềm nhớ thương/ Vẫn còn mơ màng về người tiên nữ mới: tâm trí của chàng trai vào thời điểm này chỉ có hình bóng của cô gái, nỗi nhớ ấy vẫn quấn quanh và anh ta sợ rằng đó có thể là một tiên nữ mới khiến anh ta không thể yên tĩnh."

Những biện pháp ngôn ngữ như ẩn dụ, điển cố và điển tích đã làm cho đoạn thơ trở nên sống động hơn, mô tả rõ ràng nỗi nhớ thương cay đắng trong lòng chàng trai si tình.

Tú Uyên luôn mang theo nỗi buồn, sầu thương trong trái tim khi nhớ về Giáng Kiều, ngay cả nhìn những vật thể tự nhiên cũng mang đầy nỗi nhớ thương:

Xem thêm >>> Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng