1. Quy định chung về tội hành hạ người khác?

Điều 140 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định Tội hành hạ người khác như sau:

Điều 140. Tội hành hạ người khác

1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên.”

2. Khách thể của tội hành hạ người khác

Hành hạ người khác là hành vi đối xử tàn ác như gây đau đớn về thể xác, đè nén, áp bức về tinh thần người bị lệ thuộc.

Khách thể bị tội này xâm phạm là quyền được bảo hộ sức khoẻ, tự do, danh dự của người bị lệ thuộc.

Như vậy, khách thể của tội phạm là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền được Nhà nước bảo hộ về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.

 

3. Mặt khách quan của tội hành hạ người khác

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi đối xử tàn ác và hành vi làm nhục người lệ thuộc mình. Trong đó,

Hành vi đối xử tàn ác là làm cho nạn nhân đau đớn về thể xác và đè nén, áp bức về tinh thần như: đánh đập, giam hãm không cho ra khỏi nhà, bắt nhịn ăn, uống, không cho mặc đủ ấm,...

Hành vi làm nhục là làm cho nạn nhân đau đớn về tinh thần, cảm thấy bản thân mình vô dụng, danh sự, nhân phẩm của nạn nhân bị bêu xấu, xuyên tạc như chửi rủa, xỉ vả nạn nhân trước đám đông, tung tin đồn nhảm để người khác cho rằng nạn nhân thật sự xấu xa, tội lỗi...

Về hành vi khách quan, tội hành hạ người khác cũng tương tự như hành vi khách quan của tội bức tử, chỉ khác nhau ở chỗ: trong tội hành hạ người khác, người bị hành hạ không tự sát, nên có thể nói tội hành hạ người khác là hành vi khách quan của tội bức tử. Thông thường, hành vi hành hạ được lặp đi lặp lại và kéo dài vài ngày, vài tuần, thậm chí hàng tháng, hàng năm. Hành vi hành hạ người khác vừa gây đau đớn về thể xác cho nạn nhân vừa gây thống khổ về tinh thần họ. Tuy nhiên các hành vi gây đau đớn về thể xác chỉ là những thương tích nhẹ chưa đến mức đáng kể để bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Nạn nhân của tội này phải là người có quan hệ lệ thuộc với người bị hại nhưng không phải ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình. Bởi, nếu đối tượng lệ thuộc bị ngược đãi là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình, pháp luật đã quy định riêng tội danh ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình tại Điều 185 Bộ luật Hình sự. Mối quan hệ lệ thuộc giữa người phạm tội với người bị hại là lệ thuộc về vật chất, về tinh thần. Mối quan hệ này bắt nguồn từ quan hệ công tác (thủ trưởng với nhân viên ), quan hệ thầy trò, quan hệ tôn giáo, quan hệ giữa người làm công với chủ,...

Thông thường người bị hại trong tội phạm này, bị hành hạ ngược đãi, nhưng không dám kêu hoặc phản ứng mà cam tâm chịu đựng, họ chỉ tố cáo khi mối quan hệ lệ thuộc không còn nữa hoặc bị người khác tố cáo.

 

4. Chủ thể của tội hành hạ người khác

Chủ thể thực hiện tội phạm này là bất kì người nào giữ vai trò là người được lệ thuộc, đủ 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Thứ nhất, chủ thể thực hiện tội phạm có thể là bất kì người nào được nạn nhân lệ thuộc, chủ thể có thể là cá nhân thực hiện tội phạm nhưng cũng có thể là đồng phạm. Thậm chí, trên thực tế, có nhiều vụ án phạm tội có tổ chức, có sự liên kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm. Các đồng phạm phân rõ vai trò của mình như người thực hành (người trực tiếp thực hiện tội phạm hành hạ người khác), người tổ chức (cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm, phân công nhiệm vụ cho các thành viên), người xúi giục (người dụ dỗ, thúc đẩy người thực hành thực hiện hành vi hành hạ người khác) và người giúp sức (tạo ra điều kiện về tinh thần, vật chất để người thực hành thực hiện việc hành hạ người khác).

Thứ hai, chủ thể phải là người từ đủ 16 tuổi. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội. Khoản 2 Điều 12 quy định một số tội mà người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng không có tội hành hạ người khác tại Điều 140. Như vậy, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội hành hạ người khác.

Thứ ba, người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực hình sự thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự.

 

5. Mặt chủ quan của tội hành hạ người khác

Tội hành hạ người khác được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp. Người phạm tội biết rõ mức độ nguy hiểm của hành vi mà mình gây ra, nhận thức rõ hành vi đó có thể gây tổn hại đến thể chất và tinh thần người người lệ thuộc. Tuy nhiên người phạm tội không mong muốn cho hậu quả người lệ thuộc bị tổn hại về sức khỏe hay tinh thần xảy ra nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả đó xảy ra.

 

6. Hình phạt đối với tội hành hạ người khác

Điều 140 Bộ luật Hình sự quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với trường hợp người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục 01 người lệ thuộc mình.

- Khung hình phạt phạt tù từ 01 năm đến 03 năm trong các trường hợp sau đây:

- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ. Việc quy định này xuất phát từ chính sách bảo vệ nhóm người yếu thế trong xã hội của Nhà nước cũng như truyền thống đạo đức “kính già yêu trẻ”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc. Phụ nữ mà biết là có thai tức là khi thực hiện tội phạm, người phạm tội biết chắc nạn nhân là phụ nữ mang thai (dù nạn nhân mang thai thật hay do người phạm tội hiểu lầm) mà vẫn thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe. Người ốm đau là người đang bị bệnh tật, có thể điều trị ở bệnh viện, cơ sở y tế tư nhân hoặc tại nhà riêng của họ. Người ở trong tình trạng không thể tự vệ được là người do bản thân họ bị hạn chế về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do bẩm sinh hoặc do những điều kiện khách quan đem lại, như người bị tâm thần, bị bại liệt, bị mù, bị điếc, bị câm, bị tàn tật… ; người đang ngủ say, đang bị bệnh nặng; đang ở trong tình thế khó khăn không thể tự vệ được, v.v..

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên. Gây rối loạn tâm thần và hành vi biểu hiện trạng thái thần kinh không bình thường, lo âu, sợ sệt, trầm cảm, mất ngủ,... Đó là biểu hiện của stress. Cần phân biệt rối loạn tâm thần và hành vi do bị hành hạ, ngược đãi với rối loạn tâm thần, hành vi là một loại bệnh lý có từ trước khi bị hành hạ. Căn cứ để đánh giá mức độ rối loạn tâm thần và hành vi là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

c) Đối với 02 người trở lên.”

 

7. Phân biệt tội hành hạ người khác và tội bức tử

Tội bức tử và tội hành hạ người khác đều là các tội danh mà các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến quyền được bảo hộ sức khỏe, tự do danh dự của người khác. Đều có hành vi khách quan là hành vi đối xử tàn ác, ức hiếp như thường xuyên đánh đập người lệ thuộc vào mình. Và là hành vi lặp đi lặp lại nhiều lần, kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định. Cả hai tội danh này đều được thực hiện bằng hình thức lỗi cố ý. Vì có nhiều điểm giống nhau nên khi hành vi được xác lập đôi khi sẽ khiến ta nhầm lẫn giữa hai tội danh này. Vậy làm sao để phân định hai loại tội phạm này.

Điều 130 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội bức tử

1. Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Đối với 02 người trở lên;

b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.

Điều 140 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội hành hạ người khác

“1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 11% trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên.”

Điểm phân biệt 2 tội danh này nằm ở quan hệ nhân quả và hậu quả của hành vi

- Tội bức tử:

+ Nguyên nhân dẫn đến việc nạn nhân tự sát là do hành vi của người phạm tội đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp ngược đãi hoặc làm nhục người đó.

+ Hành vi khách quan của tội bức tử phải dẫn đến hậu quả là người phạm tội tự sát, tức là, ,nạn nhân, có thể bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã tự mình thực hiện việc tước đoạt tính mạng của chính mình như: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy xuống sông, đâm vào bụng, bắn vào đầu v.v...

+ Hành vi tự sát phải do chính nạn nhân thực hiện, trường hợp nạn nhân muốn chết nhưng lại không tự mình thực hiện hành vi mà nhờ người khác giúp thì không cấu thành tội phạm này

+ Hành vi tự sát không nhất thiết phải có hậu quả chết người

- Tội hành hạ người khác

+ Không dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát

Ngoài ra, Nạn nhân của tội bức tử là những người lệ thuộc người phạm tội. Nạn nhân của tội làm nhục người khác là người lệ thuộc ngoài ông bà cha mẹ con cháu, hoặc người có công nuôi dưỡng người phạm tôi.

Kết luận: Khi một người có hành vi đối xử tàn ác, làm nhục người lệ thuộc mình, căn cứ vào hậu quả xảy ra để xác định tội danh. Nếu hậu quả dẫn đến việc người lệ thuộc tự sát thì cấu thành tội bức tử.

Lưu ý:

+ Trường hợp nạn nhân muốn chết nhưng lại không tự mình thực hiện hành vi mà nhờ người khác giúp thì không cấu thành tội phạm này mà cấu thành này

+ Trường hợp có hành vi đối xử tàn ác đối với người lệ thuộc mình là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mà nạn nhân không tự sát thì cấu thành tội Điều 185.