Trả lời:

1. Công ước Berne 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật

Công ước Berne (Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works) là điều ước quốc tế đa phương đầu tiên trong lĩnh vực quyền tác giả được ký ngày 09/9/1886 tại Thủ đô Beme của Thụy Sỹ (sau đây gọi là Công ước Beme). Công ước để mở cho mọi quốc gia tham gia. Công ước đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ trong lĩnh vực liên quan. Đó là các lần sửa đổi tại Paris ngày 04/5/1896, tại Berlin ngày 13/11/1908, hoàn thiện tại Beme ngày 20/3/1914, sửa đổi tại Rome ngày 02/6/1928, tại Brussels ngày 26/6/1948, tại Stockholm ngày 14/7/1967, tại Paris ngày 24/7/1971 và được bổ sung ngày 02/10/1979. Đạo luật hiện hành là đạo luật Paris ngày 24/7/1971 được bổ sung ngày 02/10/1979. Các quốc gia muốn gia nhập Công ước sẽ phải gửi các văn bản liên quan tới Tổng Giám đốc của WIPO - Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới.

Mục đích của Công ước Beme, như đã được chỉ rõ ở phần lời nói đầu, là “để bảo vệ, theo một cách thức thống nhất và hiệu quả nhất có thể, các quyền của tác giả đổi với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ”. Điều 1 của Công ước còn quy định rằng các quốc gia thành viên sẽ quy tụ với nhau thành một Liên hiệp để phục vụ cho việc bảo hộ các quyền của tác giả các tác phẩm văn học nghệ thuật.

Công ước Beme gồm 38 điều và một Phụ lục gồm 6 điều dành cho các nước đang phát triển. Các quốc gia thành viên Công ước Beme thì tác giả Việt Nam lúc này sẽ được hưởng quyền tác giả đối với tác phẩm của mình theo quy định của luật quốc gia thành viên đó với mức độ ngang bằng với công dân nước thành viên. Thêm vào đó tại các nước này tác giả Việt Nam còn được hưởng các đặc quyền mà Công ước Beme giành cho (ví dụ, đặc quyền giành cho tác giả là công dân của nước đang phát triển).

1.1 Các nguyên tắc Công ước Berne

+ Nguyên tắc bảo hộ tự động hay bảo hộ đương nhiên: quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định mà không phụ thuộc vào bất kì thủ tục hình thức nào như đăng ký, hoặc các thủ tục tương tự. Khoản 2 Điều 5 Công ước quy định: “Việc hưởng và thực hiện các quyền lợi này không lệ thuộc vào một thể thức, thủ tục nào hết... ”. Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của sự bảo hộ đối với quyền tác giả, pháp luật chỉ bảo hộ hình thức thể hiện ý tưởng chứ không phải bản thân ý tưởng, nên khi tác phẩm xuất hiện cũng là khi ý tưởng đã được thể hiện dưới một hình thức nhất định. Những người khác bị ngăn cản trong việc sao chép lại tác phẩm chứ không bị ngăn cản trong việc sử dụng ý tưởng của tác phẩm. Nên khi tác phẩm hình thành đã mặc nhiên phát sinh quyền của tác giả mà không cần một thủ tục xác nhận nào cả.

+ Nguyên tắc bảo hộ độc lập: việc hưởng và thực thi các quyền theo Công ước là độc lập với những gì hiện được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm. Tuy nhiên, nếu một nước thành viên có quy định thời hạn bảo hộ dài hơn quy định tối thiểu nêu trong Công ước và tác phẩm chấm dứt được bảo hộ tại nước xuất xứ, sự bảo hộ có thể bị từ chối (tại nước có thời hạn bảo hộ dài hơn này) khi sự bảo hộ tại nước xuất xứ đã kết thúc. Khoản 2 Điều 5 Công ước quy định tiếp:

“Việc hưởng và thực hiện này hoàn toàn độc lập không tuỳ thuộc vào việc tác phẩm có được bảo hộ hay không ở nước gốc của tác phẩm. Do đó, ngoài những quy định của Công ước này, mức độ bảo hộ cũng như các biện pháp khiếu nại đảm bảo cho tác giả để bảo hộ"

+ Quyền dịch thuật.

+ Quyền sao chép.

+ Quyền thực hiện phóng tác, cải biên, chuyển thể tác phẩm.

+ Quyền trình diễn công cộng tác phẩm kịch, nhạc kịch và âm nhạc.

+ Quyền trần thuật công cộng tác phẩm văn học.

+ Quyền phóng tác điện ảnh và sao chép, phân phối, trình diễn công cộng và truyền thông công cộng tác phẩm đã phóng tác hoặc sao chép.

+ Quyền phát sóng.

+ Quyền cho sử dụng tác phẩm làm nền của tác phẩm nghe nhìn, và quyền làm bản sao, phân phối và trình diễn công cộng hoặc truyền tới công chúng tác phẩm nghe nhìn đó.

+ Các quyền tinh thần gồm: quyền đứng tên tác giả của tác phẩm và quyền phản đối bất kì sự cắt xén, bóp méo hoặc sửa đổi tác phẩm, hoặc các hành vi xúc phạm khác liên quan đến tác phẩm mà có thể phưomg hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

- Nhóm 2: Các quyền mà Công ước Beme quy định mang tính lựa chọn để các quốc gia có thể quy định bảo hộ trong hệ thống pháp luật nước mình nếu muốn. Thực tế chỉ có một quyền thuộc loại này. Đó là quyền “Droit de suit” quy định tại Điều 14tór. về mặt nội dung, quyền này cho phép các tác giả hoặc là người thừa kế họp pháp, đặc biệt là tác giả và người thừa kế hợp pháp các tác phẩm nghệ thuật, được hưởng một tỷ lệ phần trăm nhất định (thường là từ 2-5%) từ giá trị bán tác phẩm của mình kể từ lần bán sau lần bán đầu tiên, về bản chất, quyền này nhằm bảo vệ lợi ích vật chất chính đáng của các tác giả và người thừa kế hợp pháp của họ, đặc biệt là các tác giả trẻ tài năng, đối với tác phẩm mỹ thuật mà họ sáng tạo ra. Một tác phẩm nghệ thuật sau khi được sáng tạo ra bởi một tác giả trẻ có rất nhiều khả năng là không được đánh giá đúng giá trị của nó trong lần bán hiệp nhưng có nơi cư trú thường xuyên ở một trong những nước trên, cũng sẽ được Công ước này coi như là tác giả công dân của nước thành viên đó.

“Tác phẩm đã công bố” là những tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý của tác giả, không phân biệt phương pháp cấu tạo các bản sao, miễn là các bản đó đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của quần chúng, tuỳ theo bản chất của tác phẩm. Không được coi là công bố: sự trinh diễn một tác phẩm sân khấu, nhạc kịch hay điện ảnh, hoà tấu một tác phẩm nhạc, đọc trước công chúng một tác phẩm văn học, phát thanh hay truyền hình một tác phẩm văn học hay nghệ thuật, triển lãm một tác phẩm nghệ thuật hay xây dựng một tác phẩm kiến trúc.

1.2 Thời hạn bảo hộ theo Công ước Berne

- Thời hạn bảo hộ: suốt cuộc đời của tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Song, tại khoản 6 Điều 7 Công ước quy định các nước thành viên có quyền quy định một thời hạn bảo hộ dài hơn thời hạn quy định ở trên. Như vậy, thời hạn quy định bảo hộ suốt cuộc đời của tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết tại khoản 1 Điều 7 chỉ là thời hạn tối thiểu, nếu luật trong nước của nước thành viên quy định thời hạn dài hơn 50 năm thì có thể áp dụng luật của nước thành viên.

- Đối với các tác phẩm điện ảnh, các quốc gia thành viên Liên hiệp có thể quy định thời hạn bảo hộ chấm dứt 50 năm sau khi tác phẩm được phổ cập đến quần chúng với sự đồng ý của tác giã, hoặc không có sự phổ cập trong vòng 50 năm tính từ ngày thực hiện tác phẩm thì thời hạn bảo hộ chấm dứt 50 năm sau khi tác phẩm được thực hiện.

- Đối với tác phẩm khuyết danh hay bút danh, thời hạn bảo hộ chấm dứt 50 năm sau khi tác phẩm được phổ cập đến quần chúng một cách hợp pháp.

- Thời hạn bảo hộ sau khi tác giả chết và những thời hạn nói ở trên được bắt đầu từ lúc tác giả chết hay từ những biến cố đã nói ở triển (theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc) trong những trường hợp nhất định có thể không tuân theo các quy định bảo hộ tối thiểu đã được quy định trong Công ước, chế độ đặc biệt này được quy định giành riêng cho hai loại quyền là quyền dịch và quyền sao in. Cụ thể, Phụ lục này quy định việc cấp lixăng bắt buộc, không chuyển nhượng và không độc quyền đối với (i) việc dịch vì mục đích dạy học, nghiên cứu hay làm đề tài, và (ii) sao chụp vì mục đích sử dụng cho các hoạt động hướng dẫn mang tính hệ thống, đối với các tác phẩm được bảo hộ theo Công ước.

Cũng liên quan phần nào tới lixăng bắt buộc, và cũng liên quan tới ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, Công ước Beme cũng cho phép các quốc gia đang phát triển áp dụng điều khoản bảo lưu (Điều 3O.ii.b) được gọi là “quy tắc 10 năm”. Điều khoản này quy định việc các quốc gia được phép giảm thời hạn bảo hộ quyền tác giả liên quan tới quyền độc quyền dịch và tái bản. Theo quy tắc này, chủ sở hữu quyền độc quyền dịch và tái bản tác phẩm sẽ bị mất quyền này nếu như họ không sử dụng nó trong vòng 10 năm kể từ ngày xuất bản lần đầu tiên tác phẩm gốc bằng cách xuất bản hay cho xuất bản, trong một hoặc một số các nước thành viên Beme, một bản dịch bằng thứ ngôn ngữ mà tác phẩm đang muốn được dịch ra ở nước đang phát triển. Nói một cách khác, quy tắc này quy định rằng: 10 năm sau khi tác phẩm gốc được xuất bản lần đầu tiên, phải được phép chủ sở hữu quyền tác giả thì mới được dịch; còn sau 10 năm đó, tác phẩm thuộc về công chúng. Tuy nhiên các nước thành viên đang phát triển chỉ được lựa chọn áp dụng một trong hai quy tắc này: quy tắc 10 năm hoặc quy tắc lixăng bắt buộc mà thôi. Họ không được áp dụng kết họp cả hai quy tắc này.

1.3 Thủ tục gia nhập Công ước Berne

Mỗi nước Liên hiệp đã ký Đạo luật này có thể phê chuẩn đạo luật, văn bản phê chuẩn phải gửi cho Tổng Giám đốc của WIPO.

Các nước ngoài Công ước có thể gia nhập đạo luật này, văn kiện

Việc tham gia Công ước Beme đã khẳng định quyết tâm của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo hộ quyền tác giả nói riêng cũng như quyền sở hữu trí tuệ nói chung, đồng thời đây cũng là một bước tiến quan trọng cho tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

2. Công ước toàn cầu về quyền tác giả 1952

Công ước toàn cầu về quyền tác giả (Universal copyright convention) (sau đây gọi là Công ước UCC) bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, do Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc bảo trợ, được ký tại Geneva (Thụy Sỹ) ngày 06/9/1952 và sửa đổi, bổ sung ngày 24/7/1971 tại Paris (Cộng hoà Pháp). Công ước ucc gồm 21 điều, phần phụ lục, nghị quyết và biên bản, để ngỏ cho bất kì quốc gia nào muốn gia nhập.

Để được hưởng sự bảo hộ của Công ước này, các tác phẩm khi được công bố (xuất bản) phải ghi dấu hiệu chuyên môn là © trong vòng tròn chỉ rõ tác giả và năm xuất bản tác phẩm.

Cũng như Công ước Beme, Công ước ucc quy định các quốc gia thành viên dành cho cá nhân, tổ chức của nhau chế độ đãi ngộ quốc dân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả.

Theo Công ước, thời hạn bảo hộ quyền tác giả không ngắn hon cuộc đời tác giả cộng thêm 25 năm sau khi tác giả chết. Thuật ngữ “công bố” có nghĩa là việc làm ra các bản sao từ bản gốc tác phẩm và đưa các bản sao đó đến công chúng, với điều kiện bản sao đó phải đọc được hoặc cảm nhận được. Công bố đồng thời ở hai hay nhiều quốc gia được hiểu là việc công bố ở các quốc gia khác trong vòng 30 ngày kể từ ngày công bố tại một quốc gia đầu tiên.

Công ước quy định quyền dịch, các hạn chế và ngoại lệ đối với quyền dịch. Thời hạn xin cấp giấy phép dịch thuật được quy định như sau: sau 7 năm kể từ ngày tác phẩm được công bố lần đầu tiên mà chưa có bản dịch nào ra bất kì thứ tiếng phổ thông thuộc các quốc gia thành viên Công ước thì công dân của bất kì quốc gia các bản ghi âm được công bố nhằm mục đích thương mại thì việc sử dụng (như phát sóng hoặc truyền đạt tới công chúng bằng bất kì hình thức nào, tại nhà hàng, khách sạn, ...) phải trả thù lao tương xứng cho những người biểu diễn, hoặc cho những nhà sản xuất bản ghi âm.

Tổ chức phát sóng có quyền cho phép hoặc ngăn cấm việc tái phát sóng chương trình phát sóng của họ; định hình chương trình phát sóng và sao chép các bản định hình này; truyền đạt đến công chúng các buổi phát sóng truyền hình nếu việc truyền đạt này được thực hiện tại nơi để mở cho công chúng tham dự bằng việc thanh toán phí vào cửa. Công ước cho phép những ngoại lệ trong pháp luật quốc gia đối với các quyền nêu trên như việc sử dụng cá nhân, sử dụng các trích đoạn ngắn trong việc đưa tin thời sự, định hình tạm thời bằng phương tiện của các tổ chức phát sóng và phục vụ cho việc phát sóng của chính tổ chức phát sóng, sử dụng chỉ nhằm mục đích giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học.

Thời hạn bảo hộ được quy định kéo dài ít nhất cho đến hết 20 năm tính từ khi kết thúc năm bản ghi âm, cuộc biểu diễn được định hình (trường hợp cuộc biểu diễn không được định hình thì tính từ khi nó được tiến hành), chương trình phát sóng được thực hiện.

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Tổ chức Văn hoá, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) được giao nhiệm vụ đồng quản lý các hoạt động do Công ước quy định. Các tổ chức đồng quản lý thành lập Ban thư ký và ủy ban liên Chính phủ gồm đại diện của 12 quốc gia ký kết để xem xét và giải quyết các vấn đề liên quan đến Công ước.

Đen nay Công ước Roma có khoảng 90 quốc gia thành viên. Công ước Roma có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 01/3/2007.

3. Công ước bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm năm 1971

Công ước bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm, chống lại việc sao chép không được phép các bản ghi âm của họ năm 1971 (hay còn gọi là Công ước Brussels).

Công ước Brussels có 12 điều, quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp thích đáng để ngăn chặn việc phân phối không được phép trên lãnh thổ của nước mình các tín hiệu mang chương trình được truyền qua vệ tinh. Việc phân phối sẽ là bất hợp pháp khi không được tổ chức phát sóng giữ vai trò quyết định chương trình phát sóng cấp phép. Xin phép là nghĩa vụ bắt buộc của tổ chức mang quốc tịch của các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, các quy định của Công ước không áp dụng đối với việc phân phối các tín hiệu được thực hiện từ vệ tinh phát sóng trực tiếp.

Công ước Brussels không quy định về việc thành lập Liên hiệp, tổ chức quản lý và ngân sách. Tính đến nay, Công ước có trên 30 quốc gia thành viên. Công ước Brussels có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 12/01/2006.

4. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tói thương mại của quyền sở hữu trí tuệ 1994

Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Agreement on trade-related aspects of interllectual property rights), (sau đây gọi là Hiệp định TRIPs). Đây là một hiệp định đa phương nằm trong hệ thống các hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới (WT0). Việc gia nhập WT0 đồng nghĩa với việc phải chịu sự ràng buộc của các quy định trong Hiệp định TRIPs.

Hiệp định TRIPs gồm 73 điều, quy định các tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng. Đây là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên quy định cả các biện pháp xử phạt đối với các thành viên không bảo đảm tiêu chuẩn tối thiểu này.

Điều 7 của Hiệp định TRIPs khẳng định việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải nhằm các mục tiêu cụ thể sau đây: thúc đẩy cải tiến công nghệ; chuyển giao và phổ biến công nghệ; bảo đảm quyền lợi của các nhà sản xuất và những người sử dụng kiến thức công tranh chấp. Tất cả các văn bản pháp luật, các quyết định xét xử chung thẩm và các văn bản quản lý phải được gửi tới Hội đồng TRIPs. Đồng thời cho phép các thành viên có một khoảng thời gian chuyển đổi thích hợp nhằm đảm bảo việc thực thi đầy đủ các nghĩa vụ. Hiệp định cũng quy định về hỗ trợ kĩ thuật và tài chính, các ưu tiên dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; thành lập cơ quan quản lý gọi là Hội đồng TRIPs để kiểm soát các hoạt động cùa TRIPs. Hiệp định TRIPs có hiệu lực tại Việt Nam vào thời điểm Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (ngày 07/11/2006).

5. Hiệp ước quyền tác giả 1996 (WCT)

Hiệp ước quyền tác giả (Copyright treaty) được ký kết tại Geneva ngày 20/12/1996 dưới sự bảo trợ của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Hiệp ước để ngỏ cho các quốc gia thành viên của WIPO và Cộng đồng châu Âu (EC) gia nhập. Hiệp ước gồm 25 điều, quy định về các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, bao gồm cả chương trình máy tính, không phân biệt cách thức và hình thức thể hiện chúng; sưu tập dữ liệu dưới bất kì hình thức nào, với sự lựa chọn và sắp xếp nội dung tạo thành những sáng tạo trí tuệ.

Hiệp ước quy định 3 quyền của tác giả: quyền phân phối (quyền cho phép cung cấp bản gốc hoặc bản sao tác phẩm tới công chúng thông qua việc bán hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu khác); quyền cho thuê (quyền cho phép cho thuê thương mại các bản gốc và bản sao chương trình máy tính, tác phẩm điện ảnh); quyền truyền thông công cộng (truyền đạt tới công chúng, đưa tới công chúng thông qua phương thức truyền cáp hoặc truyền sóng, bao hàm cả việc tạo ra sự sẵn có tác phẩm để công chúng có thể truy cập tại bất kì địa điểm, thời gian do họ lựa chọn). Trừ một số hạn chế và ngoại lệ cụ thể, các quyền này là các quyền độc quyền. Hiệp ước buộc các quốc gia thành viên phải quy định quyền áp dụng biện pháp tự bảo vệ quyền, chống lại việc dỡ bỏ, phá hủy các biện pháp công nghệ, các thông tin gồm: quyền làm bản sao; quyền phân phối; quyền cho thuê; quyền cung ứng.

Hiệp ước đòi hỏi các nước thành viên áp dụng nguyên tắc “đãi ngộ công dân”; người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm, cùng được hưởng quyền nhận một khoản thù lao thoả đáng từ việc sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm đã được sản xuất nhằm mục đích thương mại khi phát sóng hoặc truyền thông công cộng.

Thời hạn bảo hộ ít nhất là 50 năm. Việc hưởng và thực thi các quyền không phải tuân theo bất kì một thể thức nào. Hiệp ước buộc các quốc gia thành viên phải quy định các biện pháp pháp lý để thực thi, chống lại việc phá hủy, dỡ bỏ hoặc sửa đổi thông tin quản lý quyền và các biện pháp công nghệ khác do người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm sử dụng để thực thi các quyền. Hiệp ước còn buộc các quốc gia thành viên thông qua các biện pháp cần thiết để bảo đảm áp dụng Hiệp ước phù hợp với hệ thống quản lý của quốc gia mình. Đặc biệt các quốc gia thành viên phải bảo đảm các thủ tục cưỡng che theo pháp luật quốc gia, cho phép hành động có hiệu quả chống lại mọi hành vi xâm phạm các quyền quy định trong Hiệp ước.

Hiệp ước quy định thành lập Đại hội đồng các quốc gia thành viên để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc duy trì và phát triển Hiệp ước; giao cho Văn phòng quốc tế của WIPO quản lý hoạt động liên quan đến Hiệp ước.

Đến nay Hiệp ước có 68 quốc gia thành viên. Việt Nam chưa tham gia Hiệp ước.

Như vậy, để đáp ứng yêu cầu bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và sự xuất hiện Internet, trong khuôn khổ của WIPO, các quốc gia đã kịp thời ký kết Hiệp ước quyền tác giả 1996 (WCT) và Hiệp ước về biểu diễn và bản ghi âm 1996 (WPPT). Với những hiệp ước này, khái niệm sao chép kĩ thuật số, các quyền truyền kĩ thuật số, biện định CÓ hiệu lực, thuộc sở hữu của công dân, người thường trú của hai quốc gia hoặc pháp nhân, do công dân hoặc người thường trú của hai quốc gia hoặc của pháp nhân do công dân hoặc người thường trú của hai quốc gia kiểm soát hoặc sở hữu phần lớn cổ phần hoặc tài sản.

- Tất cả các loại hình tác phẩm và bản ghi âm có thể được bảo hộ quyền tác giả, không phân biệt hình thức định hình và không phụ thuộc vào bất kì một thủ tục hình thức nào.

Theo Hiệp định, các quyền được bảo hộ bao gồm các quyền tối thiểu, các quyền độc quyền sao chép, phân phối, trưng bày, phổ biến công cộng với những hạn chế và ngoại lệ theo tiêu chuẩn của Điều 9(1) Công ước Beme.

về thực thi, Hiệp định quy định nghĩa vụ áp dụng các biện pháp thực thi tại biên giới, biện pháp dân sự và hình sự theo các chuẩn mực của Hiệp định TRIPs. Các nghĩa vụ này được thực hiện theo quy định trên lãnh thổ quốc gia nào thì theo quy định của pháp luật quốc gia đó.

7. Hiệp định giữa Việt Nam - Thụy Sỹ về bảo hộ sở hữu trí tuệ

Hiệp định được ký kết ngày 07/7/1999, có hiệu lực từ ngày 08/6/2000. Ngoài phần mở đầu, Hiệp định có 9 điều là các quy định mang tính nguyên tắc. Kèm theo Hiệp định có một phụ lục về việc bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ giữa hai quốc gia, danh mục các điều ước quốc tế Việt Nam cam kết tham gia, một phụ lục về chưcmg trình hợp tác đặc biệt giữa hai bên ký kết. Phía Việt Nam được nhận sự hỗ trợ kĩ thuật từ phía Liên bang Thụy Sỹ.

Các đối tượng được bảo hộ theo Hiệp định này gồm quyền tác giả và quyền liên quan, kể cả chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu; nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, bố trí mạch tích hợp, giống cây trồng và thông tin không được công bố.

Các quyền được bảo hộ theo Hiệp định bao gồm tối thiểu các quyền độc quyền sao chép, phân phối, trưng bày, phổ biến công cộng với những hạn chế và ngoài lệ theo chuẩn mực quy định tại khoản 1 Điều 9 Công ước Beme.

về thực thi, Hiệp định quy định nghĩa vụ của các bên ký kết áp dụng các biện pháp thực thi tại biên giới, biện pháp dân sự và hình sự, bao gồm các biện pháp xử lý hình sự và ngăn chặn theo các chuẩn mực của Hiệp định TRIPs. Các nghĩa vụ này được thực hiện theo quy định của luật pháp quốc gia.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)