Mục lục bài viết
1. Giới thiệu vài nét thuyết phân tâm học và cha đẻ thuyết phân tâm học
1.1 Cha đẻ thuyết phân tâm học - Sigmund Freud
Sigmund Freud (tên đầy đủ của ông là Sigismund Schlomo Freud; ông sinh ngày 6 tháng 5 năm 1856 – mất vào ngày 23 tháng 9 năm 1939).
Nhà tâm lý học Sigmund Freud sinh ở Freiburg (một thị xã nhỏ ở Moravia, hiện nay là phần thuộc cộng hoà Czech) và mất tại London, ông là cha đẻ của phân tâm cổ điển.
Freud theo học trường y khoa, chuyên về thần kinh học và đã học một năm tại Paris với Jean-Martin Charcot. Ông chịu ảnh hưởng bởi Ambroise-August Liebault và Hippolyte-Marie Bernheim, cả hai đều dạy ông thôi miên khi ông ở Pháp. Sau khi học tập ở Pháp, Freud quay trở về Vienna và bắt đầu công việc lâm sàng với những bệnh nhân Hysteria. Vào khoảng từ năm 1887 đến 1897, công việc của ông với những bệnh nhân này dẫn đến việc phát triển phân tâm học.
Ông Sigmund Freud nguyên là một bác sĩ về thần kinh và là nhà tâm lý học người Áo. Ông là người đặt nền móng và phát triển học thuyết phân tâm học. Cho đến ngày nay mặc dù lý thuyết phân tâm học của ông còn gây nhiều tranh cãi và người ta còn đang so sánh hiệu quả của các phương pháp phân tâm học của ông với các phương pháp điều trị khác, nhưng cũng phải thừa nhận rằng ông là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong thế kỷ XX.
=> Vậy nhà tâm lý học, nhà sinh lý học và nhà tư tưởng vĩ đại nổi tiếng vào đầu thế kỷ 20, Sigmund Freudđược ví như cha đẻ của phân tâm học. Ông đã xây dựng một số lý thuyết trong suốt cuộc đời của mình bao gồm các khái niệm về tình dục trẻ sơ sinh, sự kìm nén và tâm trí vô thức. Freud cũng khám phá cấu trúc của tâm trí, và phát triển một khung trị liệu nhằm mục đích hiểu và điều trị các vấn đề tâm thần đáng lo ngại. Mục đích của Freud là thiết lập một 'tâm lý học khoa học' và mong muốn của ông là đạt được điều này bằng cách áp dụng vào tâm lý học những nguyên tắc tương tự về quan hệ nhân quả vào thời điểm đó được coi là có giá trị trong vật lý và hóa học. Với phạm vi nghiên cứu và tác động của các lý thuyết của ông đối với khái niệm phân tâm học của thế giới hiện đại, rõ ràng là phần lớn các nguyên tắc này bắt nguồn từ các tác phẩm ban đầu của Freud.
1.2. Giới thiệu thuyết phân tâm học
Phân tâm học được định nghĩa là một chuỗi các học thuyết và kỹ thuật trị liệu tâm lý có nguồn gốc từ những công trình và học thuyết của Sigmund Freud. Ý tưởng chủ đạo của phân tâm học chính là niềm tin cho rằng tất cả mọi người đều sở hữu những suy nghĩ, cảm xúc, ham muốn, và ký ức ẩn sâu trong vô thức.
Bằng cách chuyển những nội dung vô thức sang vùng ý thức, con người ta sẽ có thể trải nghiệm sự “thanh tẩy” tâm trí và hiểu sâu sắc hơn về trạng thái tâm lý hiện tại của bản thân. Qua quá trình này, con người ta sẽ có thể tìm thấy sự giải thoát khỏi những sự khó chịu và vướng bận về mặt tâm lý.
Phân tâm học đã được giải thích là vừa cấp tiến vừa bảo thủ. Vào những năm 1940, nó đã được coi là bảo thủ bởi cộng đồng trí thức châu Âu và Mỹ. Các nhà phê bình bên ngoài phong trào phân tâm học, cho dù ở cánh tả hay cánh hữu đều coi Freud là một người bảo thủ, cụ thể:
- Fromm đã lập luận rằng một số khía cạnh của lý thuyết phân tâm học phục vụ lợi ích của phản ứng chính trị trong cuốn The Fear of Freedom (1942) của ông, một đánh giá được xác nhận bởi các nhà văn thông cảm ở cánh hữu.
- Trong Freud: The Mind of the Moralist (1959), ông Philip Rieff lại miêu tả Freud là một người thúc giục con người làm điều tốt nhất cho số phận bất hạnh không thể tránh khỏi và đáng được ngưỡng mộ vì lý do đó.
- Ở những năm 1950, Herbert Marcuse đã thách thức cách giải thích phổ biến lúc đó cho rằng Freud là một người bảo thủ trong Eros và Civilization (1955), cũng như Lionel Trilling trong Freud và Cuộc khủng hoảng văn hóa của chúng ta và Norman O. Brown trong Cuộc sống chống lại cái chết (1959).
- Đối với Eros và Civilization, hai nhà triết học này lại đã giúp đưa ra ý tưởng rằng Freud và Karl Marx đang giải quyết các câu hỏi tương tự từ các quan điểm khác nhau đáng tin cậy ở cánh tả.
- Còn đối với Marcuse – ông đã chỉ trích chủ nghĩa xét lại tân Freud vì đã loại bỏ những lý thuyết có vẻ bi quan như bản năng chết, cho rằng chúng có thể bị biến thành một hướng không tưởng.
- Ngoài ra, các lý thuyết của Freud cũng ảnh hưởng đến toàn bộ trường phái Frankfurt và lý thuyết phê phán….
2. Phân tích nội dung thuyết phân tâm học
Học thuyết Phân tâm của Sigmund Freud gồm có những nội dung chính sau đây:
2.1. Vô thức
Trước và cùng thời với nhà tâm lý học S. Freud thì các nhà triết học, xã hội học, tâm lí học khác đã chia những hiện tượng tinh thần làm ba loại với những đặc điểm khác nhau, đó là:
- Vô thức;
- Tiềm thức; và
- Ý thức.
Theo Freud, ông không bác bỏ cách phân loại như vậy, nhưng ông có cách phân loại theo yêu cầu riêng của phân tâm học, cụ thể ông phân loại như sau:
- Vô thức;
- Tiền ý thức;
- Ý thức.
=> Nhận xét: Học thuyết phân tâm học được xây dựng trên khái niệm vô thức. Ông Freud quan niệm rằng: “Tất cả các hiện tượng tâm thần của con người về bản chất là hiện tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lí của con người. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô thức và tuỳ theo tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện ra theo những qui luật khác hẳn với ý thức”.
Để hiểu về vô thức ta cần hiểu về ý thức và tiềm ý thức.
- Ý thức là lớp ở trên, là những suy nghĩ và nhận thức mà ta biết rất minh bạch.
- Tiềm ý thức về đặc điểm có vẻ như không khác với tiềm thức nhưng vai trò của chúng lại có phần nào thay đổi theo yêu cầu riêng của phân tâm học. Có thể hiểu rằng tiềm thức là một hiện tượng tinh thần không còn phụ thuộc vào ý thức nữa nhưng cũng chưa hoàn toàn phụ thuộc vô thức.
- Khi đề cập đến vô thức, nhà tâm lý học Freud đồng tình với quan niệm: Vô thức là cái mang tính sinh lí tự nhiên, là cái mang tính bản năng di truyền bẩm sinh từ đời nọ sang đời kia. Tuy nhiên, ông còn cho rằng vô thức ngoài nguồn gốc có tính bẩm do cơ quan sinh lí phát động còn có sự tác động bên ngoài xã hội.
Để thấy rõ hơn ta cần tìm hiểu về cấu trúc nhân cách của Freud. Theo ông, nhân cách của cá nhân là cảnh tượng về một cuộc chiến dai dẳng, giữa một bên là những thôi thúc nguyên sơ và không thể chấp nhận được, đang mong muốn được diễn tả, một bên là các lực lượng cố tìm cách từ chối hoặc ngụy trang các thôi thúc đó.
Trong trận chiến đó, Freud còn nhận diện các đối thủ, đó là: bản năng vô thức hay là tự ngã (id), bản ngã (ego), và siêu ngã (superego).
- Thứ nhất về tự ngã (id) - Tự ngã là cái con người đã có ngay từ lúc sinh ra. Nó chi phối toàn bộ dời sống của con người. Đó cũng là nguồn cung cấp libido.
Theo Freud, con người sinh ra với hai xung động bản năng, đóng vai trò làm động cơ thúc đẩy căn bản cho tất cả mọi hành vi.
+ Một là xung năng Eros. Đây là xung động để tồn tại. Xung động này bao gồm nhu cầu ăn uống, giữ ấm, và trên hết là hoạt động tính dục (libido).
+Hai là xung năng Thanatos. Xung Năng là thôi thúc phá hủy. Mục đích của nó là phá hủy cái khác, nhưng cũng có một khía cạnh tự phá hủy đối với nó.
- Thứ hai là bản ngã (ego), Bản ngã thì không có lúc sinh ra. Chính bản ngã giúp con người tự chủ trước các tác động bên ngoài. Bản ngã phát triển qua sự tương tác bên ngoài, đồng thời nó sẽ tìm lấy sức mạnh trong siêu ngã.
- Vậy có câu hỏi là: Siêu ngã là gì? Siêu ngã thể hiện lương tri của chúng ta. Đó là các giá trị đạo đức về đúng, sai mà chủ yếu được thấm dần vào chúng ta từ bố mẹ, thầy cô và xã hội. Bản chất của siêu ngã là lương tâm và cái tôi lý tưởng. Siêu ngã được hình thành thông qua quá trình thưởng và phạt. Siêu ngã khiến chúng ta cảm thấy tội lỗi khi làm một điều sai trái. Cũng chính siêu ngã khiến chúng ta hoàn thiện mình hơn và sống theo những lý tưởng của mình. Siêu ngã tồn tại ở cả ba cấp độ nhưng chủ yếu là vô thức.
Do đó, Freud đã xây dựng mô hình lí thuyết của mình mà ông gọi là mô hình tảng băng. Theo đó, phần trên của tảng băng là ý thức, phần dưới tảng băng theo thứ tự: tiềm ý thức, siêu ngã, cái tôi, vô thức, tự ngã. Và cũng cần thấy rằng, cái tôi (ego) không phải là dạng cố định nhưng nó có thể có mặt ở cả 3 dạng thức (vô thức, tiềm ý thức và ý thức).
Vai trò quan trọng của cái vô thức trong đời sống tâm lí người được Freud làm rõ trong các công trình nghiên cứu về bệnh Hystêri, về giấc mơ và về lý thuyết tính dục cũng như ở nhiều vấn đề khác được đề cập liên quan trong các vấn đề cụ thể của ông.
2.2. Libido
Để thấy rõ hơn về vô thức, chúng ta cần hiểu libido theo quan điểm Freud.
- Libido có thể tạm dịch là dục năng – tức xung năng tính dục, là sự khát dục của con người. Ông Freud coi vô thức là bể chứa các xung năng và xung năng tính dục là xung năng quan trọng nhất cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động tâm thần của con người.
Theo ông, Libido tồn tại ở 2 dạng là Eros và Thanatos. Theo Freud, libido là bản năng tình dục của con người, chịu tác động theo nguyên tắc khoái lạc (pleasre principle). “Khát vọng tình dục là nhu cầu thỏa mãn một ham muốn mang nội dung tình dục”[2]. Nó là nhu cầu của con người như ăn, uống, ngủ, nghỉ… Libido không chỉ diễn ra trong 5 giai đoạn phát triển nhân cách của trẻ mà còn chi phối suốt cuộc đời con người. Cũng theo Freud, nhờ những thực tại ngăn cản nguyên tắc khoái lạc (Freud gọi là ego) nên con người chỉ thỏa mãn thúc đẩy tình dục khi hội đủ các yếu tố mà thôi.
2.3. Mặc cảm Oedipus
Chính vì libido chi phối không những những giai đoạn đầu đời của trẻ mà còn chi phối cả cuộc đời con người nên chúng ta sẽ hiểu cách rõ ràng hơn về quan niệm mặc cảm Oedipus của Freud. Trong quá trình phát triển nhân cách của trẻ, Freud chia 5 giai đoạn, đó là: môi miệng, hậu môn, dương vật, tiềm ẩn, cơ quan sinh dục ngoài. Theo đó, mặc cảm Oedipus xuất hiện rõ nhất trong giai đoạn dương vật. Đây là một giai đoạn đánh dấu một trong các sắc thái quan trọng nhất của tiến trình phát triển nhân cách theo quan điểm của Freud: đó là xung đột do mặc cảm Oedipus.
- Nhà tâm lý học Freud tin rằng các trẻ nam phát triển các mối quan tâm tình dục vào mẹ chúng, bắt đầu xem cha chúng như kẻ thù, và ấp ủ ước muốn giết cha – giống như Oedipus đã làm trong bi kịch Hy Lạp cổ đại. Nhưng vì thấy người cha quá uy quyền, trẻ sinh lòng sợ hãi bị trả đũa dưới dạng “lo sợ bị thiến” (Oedipal conflict). Trẻ lo ngài ông bố sẽ giải quyết cuộc cạnh tranh bằng những biện pháp quyết liệt này. Vì đời sống có sự lo âu không thể chấp nhận được như thế, nên trẻ phải giải quyết theo cách nào đó, qua cơ chế phòng thủ cái tôi gọi là nhận dạng với tác nhân tấn công. Tác động tiềm thức trên nguyên tắc người bố có thể có thái độ thù địch đối với trẻ ít hơn nếu ông ta xem trẻ như một đồng minh. Sau cùng nỗi sợ hãi này mạnh mẽ đến mức đè nén được các khát khao đối với mẹ chúng, và thay vào đó bằng cách đồng hóa (Identification) với người cha, cố bắt chước hành vi của ông càng nhiều càng tốt. Bằng cách này, trẻ đi đến việc tiếp nhận vai trò giới tính của mình, và phải nhận dạng như một nam giới.
- Đối với bé gái, theo ông thì tiến trình diễn ra khác biệt hẳn. Freud lập luận rằng các bé gái bắt đầu thức tỉnh tình dục đối với cha của chúng, tức chúng ao ước có dương vật, ao ước sinh con cho cha, đổ lỗi cho mẹ vì chúng vì mẹ mà chúng thiếu dương vật. Về điểm này, Freud sau này bị lên án vì như thế là ông đã quan niệm nữ giới thấp kém hơn nam giới. Dù vậy, giống như các bé trai, chúng thấy rằng để giải quyết những tình cảm không thể chấp nhận được như thế, chúng phải đồng hóa với bậc cha mẹ đồng giới tính bằng cách cư xử giống mẹ và chấp nhận giá trị và thái độ của bà mẹ. Theo cách này, hiện tượng đồng hóa với bà mẹ của các bé gái đã hoàn tất.
Thuyết phân tâm học còn cho chúng ta biết rằng Oedipus là mặc cảm xuất hiện cả trẻ nam và trẻ nữ.
- Riêng ở trẻ nữ, phân tâm học gọi là mặc cảm electra. Freud và các nhà phân tâm học sau này không cho chúng ta biết nhiều về mặc cảm này chỉ biết rằng nó cũng tương tự như mặc cảm Oedipus. Vào thời điểm này, các nhà phân tâm nói rằng mặc cảm Oedipus đã được giải quyết…
2.4. Giấc mơ
Tiếp đến là giấc mơ trong học thuyết phân tâm của nhà tâm lý học Freud.
Vào năm 1901 Freud đã đưa ra lí thuyết về giấc mơ. Vì Freud coi tiềm thức của con người cơ bản tập trung ở năng lượng tình dục nên lí thuyết về giấc mơ của ông cũng được giải thích theo hướng đó. Ông cho rằng, con người trong vô thức luôn mong ước một khát khao, và để tránh những mối đe dọa từ bên ngoài nên con người đã đưa mong muốn đó vào giấc mơ. “Ông gọi các hạng mục và sự kiện trong giâc mơ là nội dung hiện trong khi ý nghĩa ẩn các giấc mơ là nội dung ẩn.” Giấc mơ chỉ xuất hiện trong giấc ngủ, và phân tâm học coi giấc ngủ “chính là biểu hiện của những gì còn sót lại trong ngày, trong đời sống bên ngoài vào những lúc thức”.
2.5. Sự dồn nén
Với câu hỏi: “Phải chăng giấc mơ là một trong những biểu hiện nói về sự dồn nén của con người?” => Theo Freud, trong đời sống con người thường gặp phải chứng lo âu (anxiety), là một cảm giác gây căng thẳng và mất thăng bằng trong cuộc sống. Để giải quyết vấn đề này, tâm lí con người đã tạo nên cơ chế phòng thủ để đối phó với nó. Cơ chế phòng thủ bào gồm:
- Sự dồn nén(repression);
- Sự phóng ngoại nội tâm (projection);
- Sự chối bỏ (denial);
- Biện pháp hồi qui (regression);
- Sự hợp lí hóa (reaction Formation);
- Sự phá bỏ (undoing);
- Sự thăng hoa (sublimation); và
- Sự mơ mộng (fantasy).
Như vậy, sự dồn nén (repression) là một trong 8 cơ chế phòng thủ theo Freud. Khi một nhu cầu bản năng không thực hiện được hay không được chấp nhận nó dẽ được đẩy vào vô thức. “Dồn nén là một phương thức trực tiếp nhất nhằm giải quyết tình trạng lo âu, thay vì phải giải quyết một xung động gây ra tình tạng lo âu ở bình diện ý thức, người ta chỉ việc phớt lờ nó đi
(Luật Minh Khuê: Sưu tầm, tổng hợp trên internet)