1. Giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung quy định mới về việc giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án (Điều 246). Theo đó, khi nhận được quyết định của Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát phải xem xét căn cứ của việc yêu cầu điều tra bổ sung và giải quyết cụ thể như sau:

Một là, nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ; trường hợp Viện kiểm sát không thể tự điều tra bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung bản cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát phải ra bản cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết.

Hai là, nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không có căn cứ thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do, giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án.

Việc bổ sung quy định mới này nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, khắc phục thiếu sót do Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thiếu các quy định tạo cơ sở để Viện kiểm sát linh hoạt, chủ động giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án.

2. Về các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án

Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định:

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;

b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm;

c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;

d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng

2. Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ.

...

- Đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung “khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được” quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong thực tế có nhiều trường hợp, Thẩm phán thụ lý vụ án khi nghiên cứu hồ sơ thấy có chứng cứ chưa rõ hoặc có quan điểm đánh giá chứng cứ khác với quan điểm của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nên đã trả hồ sơ điều tra bổ sung khi chưa đưa vụ án ra xét xử, chưa thẩm tra chứng cứ thiếu sót thông qua việc xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa. Để tránh trường hợp trên và tránh việc lạm dụng trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi nghiên cứu chưa kĩ hồ sơ thì cần quy định theo hướngchặt chẽ hơn: Tại phiên tòa, nếu qua quá trình xét hỏi, tranh luận mà thấy có chứng cứ quan trọng chưa được điều tra làm rõ hoặc phát sinh tình tiết mới không thể làm rõ tại phiên tòa thì mới được trả hồ sơ điều tra bổ sung.

- Đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi “việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”. Cần quy định rõ hơn về hành vi vi phạm thủ tục tố tụng. Có quan điểm cho rằng, cần quy định theo hướng làm rõ những vi phạm đó là những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng mà gây xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng, chẳng hạn như bị can. Đối với trường hợp này thì cũng cần phải có thêm điều kiện là Tòa án không thể tự mình bổ sung được, nên cần phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung.

Bên cạnh đó, tại Khoản 2 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định: “Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ”. Khi đó, Tòa án sẽ xem xét văn bản đề nghị của Viện kiểm sát, từ đó ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.

3. Về thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án

Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định nội dung “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung”, còn nội dung Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung lại được quy định tản mạn, rải rác ở trong những điều luật khác có liên quan. Điều này vô hình chung tạo nên một sự nhầm lẫn về thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án. Cụ thể là hiện này vẫn còn tồn tại những cách hiểu sai lầm về trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, đó là cho rằng việc yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung chỉ có thể do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tiến hành và chỉ có thể tiến hành trong hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án, ở giai đoạn chuẩn bị xét xử.

4. Về thời hạn điều tra bổ sung và gia hạn điều tra bổ sung

Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trường hợp hồ sơ do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 2 tháng; còn nếu do Tòa án trả lại hồ sơ thì thời hạn điều tra bổ sung  không quá 1 tháng. Thời hạn điều tra bổ sung được tính từ ngày Cơ quan Điều tra nhận lại hồ sơ vu án và yêu cầu điều tra.

Như vậy, Bộ luật mới chỉ quy định thời điểm bắt đầu của thời hạn Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra là tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận được hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra. Còn đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát và Viện kiểm sát tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì Bộ luật chưa quy định thời hạn điều tra bổ sung trong trường hợp này. Vì vậy, cần thiết bổ sung quy định cụ thể khoảng thời gian kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ do Tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải chuyển cho Cơ quan Điều tra và quy định cụ thể khoảng thời gian kể từ ngày Tòa án ra quyết định trả điều tra bổ sung thì Tòa án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát.

5. Về số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án

Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần”. Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã giới hạn cụ thể trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa, Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Như vậy, so với quy định tại Khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã giảm số lần Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung từ “hai lần” xuống còn “một lần”.

Xoay quanh vấn đề này có một số quan điểm khác nhau, nhưng có 2 nhóm quan điểm sau: Nhóm quan điểm thứ nhất đồng ý với ý kiến cho rằng Tòa án chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa tối đa một lần; Nhóm quan điểm thứ hai lại cho rằng số lần trả điều tra bổ sung chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với những vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trước khi xét xử, còn đối với yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa là do Hội đồng xét xử quyết định nên không hạn chế về số lần quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.

Tác giả đồng quan điểm với ý kiến thứ nhất bởi khi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, những thiếu sót có thể khắc phục được thì nên phối hợp với Viện kiểm sát để khắc phục, những tài liệu chứng cứ không thể khắc phục được hoặc những vi phạm tố tụng nghiêm trọng, có căn cứ cho rằng bị cáo phạm tội khác hoặc đồng phạm khác thì trả hồ sơ điều tra bổ sung. Thẩm phán phải có trách nhiệm đối với đối với những nội dung yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung. Mặt khác quá trình điều tra luôn có sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát, chức năng của Tòa án là xét xử nên việc quy định Tòa án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần là hợp lý.

Quy định này thể hiện sự chặt chẽ hơn, tránh sự tùy tiện, lạm dụng việc trả hồ sơ để kéo dài thời gian giải quyết vụ án bởi vì theo quy định hiện hành Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần điều đó có nghĩa là cả hai lần trả hồ sơ, Tòa án có thể quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa. Quy định này còn thể hiện sự phù hợp với nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử theo tinh thần của Nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp”. Rõ ràng, theo quy định của pháp luật hiện hành, nếu như Tòa án đã trả hồ sơ hai lần trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì kết quả điều tra công khai tại phiên tòa sẽ không có ý nghĩa với việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nữa vì Tòa án đã hết số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quy định mới này trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã khắc phục được bất cập nêu trên góp phần đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa.

LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)