1. Môi giới hôn nhân với người nước ngoài thế nào là trái luật?

Hoạt động môi giới hôn nhân là quá trình giới thiệu và tư vấn về hôn nhân cho công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài. Tính đến thời điểm hiện tại, pháp luật Việt Nam chỉ công nhận và cấp phép cho các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này, đặc biệt là những tổ chức có yếu tố nước ngoài. Một trong những tổ chức được công nhận và được cấp phép theo quy định là Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

Theo Điều 51 của Nghị định 126/2014/NĐ-CP, hướng dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình, Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là một đơn vị sự nghiệp thuộc Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam hoặc Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Điều này xác định rõ vai trò và vị thế của Trung tâm, chúng hoạt động như một đơn vị sự nghiệp thuộc quyền quản lý của Hội Liên hiệp phụ nữ.

Vì vậy, mọi cá nhân hoặc tổ chức nào không được nhà nước cấp phép để hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đều coi là vi phạm pháp luật và được xem là thực hiện hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái pháp luật.

Tại Điều 52 của Nghị định 126/2014/NĐ-CP, hướng dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình, quy định rõ những nguyên tắc hoạt động của Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Cụ thể, các nguyên tắc này bao gồm:

- Hoạt động của Trung tâm phải tuân thủ nguyên tắc phi lợi nhuận, đảm bảo rằng mọi hoạt động của trung tâm sẽ đóng góp vào việc làm lành mạnh hóa các mối quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, nó phải phù hợp với nguyên tắc cơ bản về chế độ hôn nhân và gia đình của Việt Nam, và phải tôn trọng thuần phong mỹ tục của dân tộc.

- Cả hai bên trong mối quan hệ hôn nhân (người Việt Nam và người nước ngoài) đều có quyền được tư vấn và hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Không có sự phân biệt dựa trên quốc tịch hay nơi cư trú của người có yêu cầu tư vấn và hỗ trợ.

- Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng hoạt động tư vấn và hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài với mục đích mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc vì các mục đích trục lợi khác.

Qua các quy định nêu trên, có thể nhận thấy rằng hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái pháp luật đồng nghĩa với việc vi phạm những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, chi tiết như sau:

- Hoạt động tư vấn hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, đòi hỏi tiền bạc hoặc các lợi ích khác ngoài thù lao, là hành vi không tuân thủ quy định và quy đạo khi thực hiện hoạt động tư vấn và hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

- Thực hiện hoạt động tư vấn hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài mà không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản về chế độ hôn nhân và gia đình của Việt Nam, cũng như không tôn trọng thuần phong mỹ tục của dân tộc, là vi phạm quy định và nguyên tắc hoạt động.

- Từ chối thực hiện hoạt động tư vấn, hỗ trợ cho những người có yêu cầu về hôn nhân và gia đình mà có yếu tố nước ngoài không chỉ là một hành vi chống lại quy định mà còn là sự phân biệt không công bằng.

- Lợi dụng hoạt động tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc vì mục đích trục lợi khác là hành vi bất hợp pháp và bị nghiêm cấm theo quy định.

2. Xử phạt hành chính đối với hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái pháp luật

Những cá nhân và tổ chức thực hiện hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài mà vi phạm pháp luật sẽ phải đối mặt với hình phạt hoặc trách nhiệm pháp lý tùy thuộc vào mức độ, tính chất, mục đích, và động cơ của hành vi đó. Trong trường hợp vi phạm hành chính, họ có thể bị xử lý theo quy định về vi phạm hành chính. Nếu hành vi của họ đạt đến mức độ nghiêm trọng, có thể dẫn đến truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với những cá nhân và tổ chức thực hiện hành vi tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài mà không tuân thủ quy định pháp luật, họ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, tuy nhiên chưa đạt đến mức độ yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo quy định tại Điều 39 của Nghị định 82/2020/NĐ-CP, các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ bị xử phạt theo các điều khoản sau đây:

- Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, nếu không thực hiện tư vấn, hỗ trợ cho những người có yêu cầu về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

- Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, nếu thực hiện hoạt động tư vấn hỗ trợ hôn nhân và gia đình với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, đòi hỏi tiền bạc hoặc các lợi ích khác ngoài thù lao theo quy định, sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

- Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, nếu không giữ bí mật về các thông tin, tư liệu về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo quy định, sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

- Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi hoạt động tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, với mục đích mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc vì các mục đích trục lợi khác, sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

3. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài

Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017, tại Điều 150, quy định về tội mua bán người như sau:

- Người nào sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, thực hiện hành vi lừa gạt hoặc áp dụng các thủ đoạn khác để thực hiện một trong những hành vi sau đây sẽ bị phạt tù từ 5 đến 10 năm:

  + Chuyển giao hoặc tiếp nhận người với mục đích trao đổi, nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác;

  + Chuyển giao hoặc tiếp nhận người với mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

  + Tuyển mộ, vận chuyển hoặc ẩn nấp người khác để thực hiện các hành vi trên.

- Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tù từ 8 đến 15 năm:

  + Hành vi có tổ chức;

  + Với động cơ đê hèn;

  + Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc làm rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân khiến tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, trừ khi không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 của Điều này;

  + Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước;

  + Với từ 2 người đến 5 người;

  + Phạm tội 2 lần trở lên.

- Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tù từ 12 đến 20 năm:

  + Hành vi có tính chất chuyên nghiệp;

  + Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

  + Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc làm rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân khi tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên;

  + Gây chết hoặc tự sát cho nạn nhân;

  + Với từ 6 người trở lên;

  + Tái phạm nguy hiểm.

- Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị phạt quản chế, cấm cư trú từ 1 đến 5 năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Bài viết liên quan: Tư vấn tố cáo, xử phạt hành vi môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài?

Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn!