Khi tôi đến, ông D đã đợi sẵn ở đó và hỏi mượn bằng và bảo tôi ký vào 1 bản hợp đồng gì đó. Tôi đồng ý đưa Giấy phép lái xe và ký tên. Cửa hàng đó yêu cầu tôi để lại CMND nhưng tôi từ chối, nói không mang theo. Ông D nói với tôi là mượn bằng lái của tôi 1 lúc rồi trả lại và việc ký tên chỉ là thủ tục để nhận xe.

Sau đó, tôi cầm lái và chở ông D được 1 đoạn ông D yêu cầu tôi dừng, ông D bảo tôi là xuống xe để người khác lái, công việc của tôi đã xong. Khoảng 2 tháng sau, tôi có nhận đươc điện thoại của bên cho thuê xe tự lái và đòi xe. Họ nói tôi là lừa đảo để chiếm đoạt tài sản bằng hình thức thuê xe tự lái và đi địa phương khác cầm cắm. Điều đó đã ảnh hưởng lớn đến danh dự, gia đình và công việc của tôi. Tôi đã hẹn gặp người ở cửa hàng cho thuê xe và được biết là ông D đã mất liên lạc 1 thời gian. Vị trí của chiếc xe cửa hàng lại không xác minh đươc ở chỗ nào, chỉ có thông tin ông D đã cầm cắm và chưa lấy về. Cửa hàng cho thuê xe yêu cầu tôi phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về chiếc xe, nếu không thanh toán thì họ sẽ giao cho công an xử lý. Tôi được biết ông D đã giao dịch với cửa hàng cho thuê xe từ trước và hơn 2 tháng sau khi không liên lạc được cho ông D bên cho thuê xe tìm đến tôi, bắt tôi nhận hết trách nhiệm.

Vậy xin hỏi luật sư bên cho thuê xe có cơ sở pháp lý để bắt tôi bồi thường hay phải chịu trách nhiệm không? Tôi phải chịu những trách nhiệm gì khi chưa tìm được ông D? Việc cửa hàng cho thuê xe đến gia đình và nơi tôi làm việc thông tin tôi lừa đảo chiếm đoạt tài sản ảnh hưởng xấu đến danh dự và công việc điều đó đúng hay sai?

Mong các luật sư cho ý kiến và cách giải quyết thoả đáng.! Tôi xin chân thành cảm ơn...!

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn pháp luật dân sự của công ty Luật Minh Khuê.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến,gọi: 1900.6162

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của chúng tôi nghiên cứu và tư vấn như sau: 

1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009

Bộ luật dân sự năm 2005

2. Nội dung tư vấn:

Theo quy định tại Điều 132 Bộ luật dân sự 2005 quy định:

"Điều 132. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa  

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó."

Theo thông tin bạn cung cấp, bạn bị ông D lừa dối về việc mượn bằng lái xe và ký vào thủ tục nhận hàng. Tuy nhiên, nếu bạn chứng minh được bạn bị ông D lừa dối khi tham gia giao dịch này thì bạn có thể viết đơn yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự thuê xe là vô hiệu. Về hậu quả pháp lý, Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
"1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường."

Về trách nhiệm bồi thường của bạn với công ty cho thuê xe: Trường hợp của bạn, khi cho mượn giấy tờ, bạn nói không hề biết việc giao dịch giữa công ty thuê xe với ông D, xét thấy tính chất của vụ việc thì bạn khó tránh khỏi việc phải có trách nhiệm bồi thường nếu bạn không chứng minh được việc bạn bị lừa dối. Bởi vì cửa hàng họ chỉ biết bạn là người ký kết vào hợp đồng thuê xe đó, mà không hề biết giao dịch giữa bạn và ông D đó như thế nào. Bạn là người trực tiếp đứng tên trong hợp đồng nên bạn phải có trách nhiệm. Nếu doanh nghiệp cho thuê xe tự lái đó có các bằng chứng chứng minh xe này đã được cầm cố hoặc thế chấp thì họ có quyền yêu cầu bạn bồi thường. 

Về việc cửa hàng cho thuê xe đến gia đình và nơi bạn làm việc thông tin bạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản ảnh hưởng xấu đến danh dự và công việc của bạn, theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì chưa đặt ra trách nhiệm hình sự. Vì vậy, nếu bạn biết cụ thể người nào đó loan tin sai sự thật về bạn, ảnh hưởng xấu đến danh dự, công việc, uy tín của bạn thì bạn có thể khởi kiện người đó về tội vu khống quy định tại Điều 122 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung 2009:

"1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:

A) Có tổ chức;

B) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

C) Đối với nhiều người;

D) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

Đ) Đối với người thi hành công vụ;

E) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

Vu khống được hiểu là những hành vi như bịa đặt chuyện xấu xa cho người khác về vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức, pháp luật... Bịa đặt là hư cấu những chuyện không có thật; loan truyền những chuyện, những điều biết rõ là bịa đặt, vu oan cho người khác; bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan nhà nước, cho rằng họ đã phạm một tội nào đó. Hành vi vu khống có thể thực hiện thông qua các hình thức như truyền miệng, viết bài, gửi đơn, thư tố giác, thư nặc danh... 

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Rất mong nhận được sự hợp tác!                                  

Trân trọng./.                                  

Bộ phận tư vấn luật dân sự.