Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm
- 2. Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt.
- 3. Biện pháp tư pháp được áp dụng cho chính cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
- 4. Biện pháp tư pháp nhằm hạn chế quyền, tự do của người thực hiện tội phạm
- 5. Biện pháp tư pháp được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn tố tụng
- 6. Biện pháp tư pháp tuân theo nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người.
- 7. Các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội
1. Khái niệm
Khi nghiên cứu lý luận về các biện pháp tư pháp hình sự, việc xem xét khái niệm của nó là hết sức quan trọng, song nếu chỉ nghiên cứu trên cạnh lý khía luận thì chưa đủ, mà cần phải xem xét trên cả khía cạnh pháp luật hình sự thực định cũng như thực tiễn áp dụng. Chúng ta cùng điểm qua một số khía cạnh để xem xét khái niệm cơ bản của các biện pháp tư pháp:
– Pháp luật hình sự thực định: Pháp luật hình sự thực định Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến năm 1986 (pháp điển hóa lần 1) thi chua xây dựng định nghĩa pháp lý của khái niệm các biện pháp tư pháp hình sự, cũng như chưa từng được ghi nhận về mặt lập pháp. Pháp điển hóa lần thứ 2 (năm 1999), khái niệm pháp lý của “biện pháp tư pháp” cũng chưa được chính thức ghi nhận trong pháp luật thực định. Như vậy, có thể nói mặc dù các biện pháp tư pháp hình sự là một chế định hết sức quan trọng, song hành cùng hình phạt để hoàn thiện hệ thống chế tải hình sự, nhưng lại chưa được ghi nhận một cách chinh thống. Việc chưa để cập đến nó trên cơ sở pháp luật thực định là một điểm thiếu sót cần được xem xét.
– Trong lý luận, từ trước đến nay trong khoa học luật hình sự của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khái niệm về các biện pháp tư pháp có rất nhiều tranh cãi, ý kiến khác nhau, song vẫn chưa có một quan điểm thống nhất nào, cụ thể là:
– Khoa học luật hình sự Việt Nam có một số quan điểm coi các biện pháp tư pháp là: Biện pháp tư pháp hình sự không phải là hình phạt, chi có tính chất hành chính, dân sự nhưng được quyết định ngay trong vụ án hình sự. Ngoài ra các biện pháp được áp dụng chung đối với bị cáo, người bị hai, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
“Biện pháp tư pháp hình sự là các biện pháp hình sự được Bộ luật Hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt”.
Trong luật hình sự Việt Nam, chế định hình phạt được Bộ luật hình sự năm 1999 ghi nhận đây đủ từ khái niệm, mục đích đến các loại hình phạt cụ thể. Trong khi đó, Pháp luật hình sự nước ta từ năm 1945 đến nay chưa có ghi nhận khái niệm pháp lý cũng như mục đích của biện pháp tư pháp. Định nghĩa biện pháp tư pháp đã được một số nhà hình sự học đề cập đến trong một số công trình khoa học luật hình sự như các sách chuyên khảo và giáo trình của các trường đại học chuyên ngành Luật. Chẳng hạn như:
Biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng với người phạm tội cũng như người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mắt khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiến hành vi của mình.
2. Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt.
3. Biện pháp tư pháp được áp dụng cho chính cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
4. Biện pháp tư pháp nhằm hạn chế quyền, tự do của người thực hiện tội phạm
5. Biện pháp tư pháp được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn tố tụng
6. Biện pháp tư pháp tuân theo nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người.
7. Các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội
Điều 47. Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
Về cơ bản, nội dung điều luật này vẫn kế thừa nhiều quy định tại Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, chỉ sửa đổi về nội dung nhằm thể hiện chính xác, cụ thể hơn:
+ Khoản 1 Điều 47 đã thay cụm từ "sung quỹ nhà nước" bằng cụm từ "sung vào ngân sách nhà nước" để đảm bảo sự chính xác trong cách sử dụng thuật ngữ. Đồng thời, ngoài việc xử lý đối với vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm là "tịch thu sung vào ngân sách nhà nước" như quy định tại Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 47 đã bổ sung thêm hình thức xử lý là "tịch thu tiêu hủy" tại khoản 1 để đảm bảo đầy đủ, chính xác hơn. Ngoài ra, tại điểm c khoản 1 Điều 47 cũng đã bổ sung thêm đối tượng là vật thuộc loại Nhà nước cấm "tàng trữ" sẽ đầy đủ hơn so với quy định cũ.
+ Bổ sung thêm đối tượng vật, tiền liên quan đến tội phạm sẽ bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước là "khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội" để đảm bảo sự đầy đủ, chính xác cũng như đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn áp dụng pháp luật.
+ Tại khoản 3 Điều 47 đã bỏ cụm từ "sung quỹ nhà nước" để đảm bảo sự linh hoạt trong xử lý vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm bị tịch thu (có thể bị sung vào ngân sách nhà nước hoặc có thể bị tiêu hủy, tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của từng loại vật, tiền).
Điều 48. Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi
Quy định này kế thừa và giữ nguyên như Điều 42 Bộ luật Hình sự 1999, cụ thể"
+ Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.
+ Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
Điều 49. Bắt buộc chữa bệnh
Điều 49 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được hình thành trên cơ sở gộp 02 điều luật của Bộ luật Hình sự năm 1999 là Điều 43 - Bắt buộc chữa bệnh và Điều 44 - Thời gian bắt buộc chữa bệnh.
So với Điều 43 của Bộ luật Hình sự năm 1999 về biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì Điều 49 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có sửa đổi như sau:
+ Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì căn cứ để quyết định đưa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội vào một sơ sở chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh là "kết luận của Hội đồng giám định pháp y", Điều 49 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi căn cứ này thành " kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần" để phù hợp với Luật giám định tư pháp năm 2012, bởi lẽ, chỉ trong trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại thì việc giám định lại lần thứ hai mới phải do Hội đồng giám định thực hiện.
+ Gộp quy định về trừ thời gian bắt buộc chữa bệnh vào thời hạn chấp hành hình phạt tù tại Điều 44 Bộ luật Hình sự năm 1999 vào nội dung Điều 49 Bộ luật Hình sự năm 2015.