1. Thế nào là hành vi dùng hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu?

Hiện tại, chưa có văn bản thay thế để định nghĩa cụ thể về khái niệm "hung khí nguy hiểm". Tuy nhiên, chúng ta có thể dựa trên tinh thần của các tiểu mục 3.1 mục 3 và tiểu mục 2.1 và 2.2 phần I của Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP để định nghĩa.

Theo đó, "hung khí nguy hiểm" được hiểu là việc sử dụng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Vũ khí và phương tiện nguy hiểm có thể được xác định như sau:

- Vũ khí: Đây là một trong các loại hung khí nguy hiểm được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Vũ khí bao gồm vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao và vũ khí thô sơ.

- Phương tiện nguy hiểm: Đây là các công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cuộc sống của con người (trong sản xuất, sinh hoạt) hoặc là vật mà người phạm tội chế tạo ra để thực hiện tội phạm. Nếu sử dụng các công cụ, dụng cụ hoặc vật đó để tấn công người khác, sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công.

Các công cụ, dụng cụ có thể bao gồm búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn, và các vật mà người phạm tội chế tạo ra như thanh sắt mài nhọn, côn gỗ, cũng như các vật có sẵn trong tự nhiên như gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt.

Đặc điểm chung của các hung khí nguy hiểm là chúng là những vật đặc định và không thể tự di chuyển nếu không có sự tác động của con người. Khi được con người sử dụng để gây thương tích, chúng được xác định là hung khí nguy hiểm. Điểm mấu chốt để xác định liệu một công cụ, dụng cụ... trở thành hung khí nguy hiểm hay không phụ thuộc vào mục đích sử dụng của con người.

Tóm lại, các loại hung khí nguy hiểm tồn tại dưới hai dạng: công cụ, dụng cụ, vũ khí và vật có sẵn trong tự nhiên. Các hung khí nguy hiểm này có đặc điểm chung là không thể tự di chuyển nếu không có sự tác động của con người và gây nguy hiểm khi được sử dụng để tấn công người khác.

Đối với vùng trọng yếu của cơ thể, hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về định nghĩa. Tuy nhiên, theo tổng kết thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, có thể hiểu rằng vùng trọng yếu của cơ thể là những vùng quan trọng và chủ yếu của cơ thể con người. Những vùng này, nếu bị tổn thương, có thể quyết định đến sự tồn tại hoặc tử vong của con người. Ví dụ, các vùng quan trọng như đầu, cổ, gáy (ảnh hưởng đến sọ, não, động mạch cảnh, đốt sống cổ...); ngực, lưng, bụng (ảnh hưởng đến tim, phổi hoặc các cơ quan nội tạng khác); vùng hông, đùi trên (ảnh hưởng đến động mạch chủ...).

2. Xác định tội danh trong trường hợp bị cáo dùng hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu của cơ thể bị hại

Qua thực tiễn xét xử chúng ta có thể thấy hiện nay trường hợp người phạm tội dùng hung khí tấn công người khác nhưng không chứng minh được họ có ý thức tước đoạt mạng sống của người khác như đánh, đâm, chém vào vùng trọng yếu (đầu, ngực, bụng…) trên cơ thể của nạn nhân còn nhiều quan điểm khác nhau.

Có quan điểm cho rằng, trong trường hợp người phạm tội không có ý định tước đoạt mạng sống và không mong muốn hậu quả xảy ra, nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội như đâm, chém, đánh vào vùng trọng yếu trên cơ thể nạn nhân, họ phải nhận thức rằng hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Việc nạn nhân không chết có thể xem là ngoài ý muốn. Do đó, người phạm tội sẽ bị truy tố và xét xử về tội "Giết người".

Tuy nhiên, quan điểm khác đánh giá rằng người phạm tội không có ý định tước đoạt mạng sống và không mong muốn hậu quả xảy ra, nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội như đâm, chém, đánh vào vùng trọng yếu trên cơ thể nạn nhân, mức độ thương tích không nghiêm trọng. Do đó, người phạm tội sẽ bị truy tố và xét xử về tội "Cố ý gây thương tích".

Tóm lại, trong việc định tội cho các trường hợp người phạm tội không có ý định tước đoạt mạng sống của người khác và không mong muốn hậu quả xảy ra, nhưng thực hiện hành vi phạm tội như đâm, chém, đánh vào vùng trọng yếu trên cơ thể nạn nhân, cần xem xét và đánh giá toàn diện về các yếu tố khách quan và chủ quan của tội phạm. Các yếu tố như mức độ mâu thuẫn, hung khí được sử dụng, cường độ tấn công của người phạm tội... sẽ được xem xét. Nếu mâu thuẫn gay gắt và người phạm tội sử dụng hung khí như dao để tấn công vào bất kỳ vị trí nào trên cơ thể nạn nhân, sau đó đã đạt được mục đích gây thương tích và không tiếp tục tấn công hoặc ngăn cản, thì người phạm tội sẽ bị truy tố về tội "Cố ý gây thương tích".

Trong trường hợp người phạm tội đã đâm, chém vào vùng trọng yếu trên cơ thể nạn nhân và tiếp tục cố ý truy sát, phạm tội đến cùng, thể hiện rõ ý chí và mục đích tước đoạt mạng sống của nạn nhân, thì hành vi của người phạm tội sẽ cấu thành tội "Giết người".

Để xác định tội danh cho hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu, cần xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để xác định tội danh phù hợp. Có hai tội danh có thể áp dụng trong trường hợp này:

Tội cố ý gây thương tích:

- Mặt khách thể: ảnh hưởng đến sức khỏe của người khác.

- Mặt khách quan: đây là loại tội phạm có thành phần vật chất.

  • Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích là hành vi trái phép tác động đến thân thể của người khác.
  • Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: thể hiện bằng sự gây thương tích và gây tổn hại về sức khỏe.
  • Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

- Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích: lỗi cố ý.

- Mặt chủ thể: chủ thể thường có khả năng chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; từ 16 tuổi trở lên có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hành vi giết người được quy định trong Bộ luật Hình sự (Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tội giết người theo Bộ luật Hình sự:

- Khách thể: xâm phạm tính mạng của người khác. Đối tượng tác động là con người đang sống, đại diện cho một thực thể tự nhiên.

- Mặt khách quan: tội giết người là loại tội phạm có thành phần vật chất, do đó dấu hiệu khách quan bao gồm:

  • Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi trái phép tước đoạt tính mạng của người khác, tức là hành vi tác động trái phép đến thân thể của người khác và có khả năng thực tế gây ra cái chết. Hành vi này có thể là hành động như đâm, chém, bắn, bóp cổ, và cũng có thể là hành vi không hành động như không cho con mới đẻ bú dẫn đến cái chết của bé.
  • Hậu quả: thông thường gây ra hậu quả trực tiếp làm người khác chết. Tuy nhiên, chỉ cần hành vi phạm tội đã có ý định chấm dứt sự sống của người khác (hoặc làm cho người khác chết), thì tội giết người được cấu thành, bất kể có xảy ra hậu quả chết người hay không.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhìn thấy được hậu quả cái chết có thể hoặc chắc chắn sẽ xảy ra và mong muốn hậu quả cái chết xảy ra. Do đó, ngay cả khi hậu quả cái chết chưa xảy ra do nguyên nhân khách quan, vẫn có thể kết án tội giết người. Đối với lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, do đó việc kết án tùy thuộc vào hậu quả thực tế: nếu gây ra hậu quả cái chết, tội giết người được kết án; nếu không gây ra hậu quả cái chết, tội cố ý gây thương tích được kết án.

- Mặt chủ thể: chủ thể thường có khả năng chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; từ 16 tuổi trở lên có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hành vi cố ý gây thương tích được quy định trong Bộ luật Hình sự (Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, khi một người dùng hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu của người khác, tội danh có thể được xác định là tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích, tùy thuộc vào việc hành vi phạm tội đã đáp ứng đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 hay chưa.

3. Những vấn đề cần làm rõ khi xác định tội danh trong trường hợp dùng hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu 

Để đảm bảo tính chính xác của kết quả xét xử và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, việc nghiên cứu hồ sơ và quá trình xét xử của Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa và các thành viên Hội thẩm nhân dân đối với loại tội phạm này cần làm rõ những vấn đề sau đây:

- Xác định mục đích hành vi phạm tội: Để xác định liệu người phạm tội có ý thức chủ quan trong việc tước đoạt tính mạng người khác hay không, cần xem xét chứng cứ để đưa ra kết luận về ý định của họ. Nếu có chứng cứ cho thấy ý định giết người, thì tội giết người được xác định. Ngược lại, nếu không có ý định giết người, thì tội cố ý gây thương tích được áp dụng.

- Xác định mức độ tấn công và cường độ tấn công: Mức độ tấn công là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi, trong khi cường độ tấn công đo lượng lực mạnh của hành vi đó. Việc xác định mức độ tấn công và cường độ tấn công là rất quan trọng để phân biệt hai tội danh. Nếu người phạm tội đánh người một cách liên tục và mạnh mẽ, chứng tỏ họ có ý định giết người.

- Xác định vị trí tác động: Để phân biệt hai loại tội phạm này, cần xác định vị trí tấn công trên cơ thể. Có thể xem xét vị trí như vùng đầu, vùng ngực, bụng... vì đây là những vị trí quan trọng trên cơ thể. Khi xác định vị trí trọng yếu, cần kết hợp với các yếu tố khác như cường độ tấn công, mức độ tấn công, loại vũ khí sử dụng. Ví dụ, gây thương tích ở vùng đầu phải gây ra hậu quả làm tổn thương sọ, như vỡ, lún sọ; gây thương tích ở vùng ngực phải dẫn đến hậu quả thấu ngực, tổn thương phổi, tim...

- Xác định yếu tố lỗi: Yếu tố lỗi của người phạm tội là thái độ tâm lý bên trong họ đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Sự khác biệt cơ bản là người phạm tội cố ý gây thương tích chỉ mong muốn hoặc không quan tâm đến hậu quả gây thương tích. Trong khi người phạm tội giết người thì mong muốn hậu quả xảy ra, việc chết người là ngoài ý muốn của họ.

Để tìm hiểu thêm những thông tin liên quan, mời quý bạn đọc cùng tham khảo thêm bài viết sau của Luật Minh Khuê: Khái niệm về hung khí nguy hiểm ? Mức phạt khi sử dụng hung khí, vũ khí?

Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết của Luật Minh Khuê liên quan đến vấn đề: Xác định tội danh trong trường hợp bị cáo dùng hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu của cơ thể bị hại. Mọi thắc mắc chưa rõ hay có nhu cầu hỗ trợ vấn đề pháp lý khác, quý khách hàng vui lòng liên hệ với bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua số hotline: 1900.6162 hoặc gửi yêu cầu tư vấn qua email: lienhe@luatminhkhue.vn để được hỗ trợ và giải đáp kịp thời. Xin trân trọng cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật Minh Khuê.