Mục lục bài viết
- 1. Xử lý vi phạm pháp luật là gì ?
- 2. Các yếu tố cấu thành hành vi vi phạm pháp luật
- 2.1 Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
- 2.2 Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
- 2.3 Chủ thể của vi phạm pháp luật
- 2.4 Khách thể của vi phạm pháp luật
- 3. Truy cứu trách nhiệm pháp lý
- 3.1 Các loại trách nhiệm pháp lý
- 3.2 Căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lý
1. Xử lý vi phạm pháp luật là gì ?
Xử lý vi phạm pháp luật là xem xét, quyết định äp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lí đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.
Như vậy, có thể thấy để có thể xử lý vi phạm pháp luật thì trước hết cá nhân, tổ chức đó phải có hành vi vi phạm pháp luật, tiếp đó mới có thể xem xét mức độ của hành vi để truy cứu trách nhiệm pháp lý.
2. Các yếu tố cấu thành hành vi vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là những hành vi trái với các quy định của pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành ra, nhìn chung, vi phạm pháp luật bao gồm 3 loại chính là vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm pháp luật hình sự và vi phạm pháp luật dân sự.
Mỗi hành vi vi phạm pháp luật sẽ có những chế tài xử lý cụ thể khác nhau như xử phạt hành chính, phạt tù,…
2.1 Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, bao gồm các hành vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi đó và những yếu tố như thời gian, địa điểm, cách thức, thủ đoạn, công cụ, phương tiện vi phạm pháp luật...
Hành vi trái pháp luật có thể thể hiện dưới dạng những hành động như đâm, chém người, trộm cắp tài sản, đi vào đường cấm, lạm quyền khi thi hành công vụ; có thể được thể hiện dưới dạng không hành động như không tố giác tội phạm, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự...
Hậu quả là kết quả trực tiếp của hành vi hái pháp luật, đó là những thiệt hại xảy ra cho xã hội. Bất cứ vi phạm pháp luật nào cũng có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra những hậu quả nhất định. Hậu quả của vi phạm pháp luật được biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các quan hệ xã hội bị xâm hại. Hậu quả của vi phạm pháp luật có thể là những thiệt hại cụ thể, có thể định lượng được như thiệt hại về của cải vật chất, về tính mạng, sức khỏe của con người. Nó cũng có thể là những thiệt hại trừu tượng khó có thể lượng hoá một cách chính xác như thiệt hại về tinh thần của con người, tình trạng nguy hiểm cho đời sống... Hậu quả của vi phạm là cơ sở quan trọng để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật.
Thời gian xảy ra vi phạm là thời điểm hoặc khoảng thời gian vi phạm pháp luật được thực hiện. Công cụ, phương tiện vi phạm pháp luật được hiểu là cái mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, chẳng hạn như dao để chém người, xe máy để đi cưóp giật... Phương pháp, thủ đoạn là cách thức thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cách thức tiến hành hành vi, cách thức sử dụng công cụ phương tiện... Những yếu tố này cũng ít nhiều phản ánh tính chất nguy hiểm của vi phạm pháp luật.
2.2 Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ diễn biến tâm lí của chủ thể khi vi phạm pháp luật bao gồm lỗi, động cơ và mục đích.
Lỗi phản ảnh thái độ tâm lí bên trong của chủ thể đổi với hành vỉ trái pháp luật và hậu quả của hành vỉ đổ, cho nên lỗi là yếu tố quan trọng phản ánh mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật Có hai loại lỗi cơ bản là cố ý và vô ý; lỗi cố ý gồm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp; lỗi vô ý gồm vô ý do quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
+ Lỗi cổ ý trực tiếp có đặc trưng là chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi cố ỷ gián tiếp có đặc trưng là chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ỷ vì quá tự tin có đặc trưng là chủ thể vi phạm gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp nhận thấy trước hậu quả đó nhưng tin tưởng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
+ Lỗi vô ỷ do cẩu thả có đặc trưng là chủ thể vi phạm đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không nhận thấy trước được hậu quả đó mặc dù càn phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Yếu tố cần phải thấy trước thể hiện ở chỗ người vi phạm có nghĩa vụ phải tuân thủ những quy tắc nhất định nhung do luộm thuộm, thiếu cẩn trọng, lơ đễnh, không tập trung, lơ là, tắc trách... nên đã không thực hiện những nghĩa vụ đó. Yếu tố có thể thấy trước thể hiện ở chỗ người vi phạm có đủ điều kiện khách quan và chủ quan (trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thời gian, địa điểm, điều kiện, hoàn cảnh khách quan...) để có thể thấy trước khả năng xảy ra hậu quả trong hành vi của mình.
Động cơ vi phạm là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vỉ vi phạm pháp luật. Chỉ những vi phạm pháp luật với lỗi cố ý mới có yếu tố động cơ, bởi vì người vi phạm pháp luật với lỗi vô ý, khi thực hiện hành vi họ không nhận thức trước hành vi của minh là vi phạm pháp luật hoặc hoàn toàn tin rằng hành vi của mình là không vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, nhiều trường hợp vi phạm pháp luật, chủ thể có thể được thúc đẩy bởi động cơ như ghen tuông, đố kị, thù tức, tham lam, vụ lợi, sĩ diện...
Mục đích vi phạm pháp luật là kết quả trong ỷ thức mà chủ thế vi phạm pháp luật đặt ra và mong muốn đạt được khỉ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Chỉ những vi phạm với lỗi cố ý trực tiếp mới có yếu tố mục đích, bởi vì chỉ trong trường hợp này, người vi phạm mới mong muốn đạt được kết quả nào đó bằng việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, cần phân biệt mục đích vi phạm với hậu quả của vi phạm pháp luật. Hậu quả là kết quả xảy ra trên thực tế của hành vi vi phạm, còn mục đích là kết quả trong ý thức mà chủ thể mong muốn đạt được, nó nảy sinh trước khi thực hiện hành vi. Hậu quả xảy ra có thể trùng hợp với mục đích nhưng cũng có thể khác so với mục đích mà chủ thể mong muốn. Điều này là do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối quá trình thực hiện hành vi của chủ thể.
2.3 Chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể của vi phạm pháp luật là những cá nhân hay tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lí đã có hành vi vi phạm pháp luật. Năng lực trách nhiệm pháp lí của cá nhân được xác định trên cơ sở độ tuổi và khả năng nhận thức và điều khiển hành vĩ của họ. Mọi tổ chức hợp pháp đều có năng lực trách nhiệm pháp lí, năng lực trách nhiệm pháp lí của tổ chức được xác định trên cơ sở địa vị pháp lí của tổ chức đó. Pháp luật của các nhà nước khác nhau có thể có quy định khác nhau về năng lực trách nhiệm pháp lí cũng như cơ cấu chủ thể vi phạm pháp luật. Ở một số vi phạm pháp luật, chủ thể phải có những dấu hiệu hay điều kiện riêng. Trong những trường hợp này, chủ thể vi phạm pháp luật được gọi là chủ thể đặc biệt. Nếu không thỏa mãn những dấu hiệu hay điều kiện này thì chưa phải là vi phạm pháp luật trong trường hợp đó.
2.4 Khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng đã bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Khách thể là yếu tố quan ưọng phản ánh tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật. Một vi phạm pháp luật có thể xâm hại một hoặc nhiều khách thể, chẳng hạn hành vi trộm cắp xâm phạm quyền sở hữu; hành vi cướp vừa xâm hại sức khoẻ, tính mạng con người, vừa xâm hại quyền sở hữu. cần phân biệt khách thể của vi phạm pháp luật với đối tượng tác động của vi phạm đó. Đối tượng tác động của vi phạm pháp luật là những bộ phận của khách thể, có thể là con người, các vật thể cụ thể, hoạt động của con người...
3. Truy cứu trách nhiệm pháp lý
3.1 Các loại trách nhiệm pháp lý
- Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất do toà án áp dụng đối với các chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội. Chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự có thể phải gánh chịu các biện pháp chế tài pháp luật như cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình,...
- Trách nhiệm hành chính được áp dụng đối với chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Chủ thể phải chịu trách nhiệm hành chính có thể phải gánh chịu các biện pháp chế tài pháp luật như cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề,...
- Trách nhiệm kỉ luật nhà nước được áp dụng đối với các chủ thể vi phạm kỉ luật nhà nước. Chủ thể phải chịu trách nhiệm kỉ luật nhà nước có thể phải gánh chịu các biện pháp chế tài pháp luật như cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc, thôi học,.. Loại trách nhiệm pháp lí này có thể đi kèm các loại trách nhiệm pháp lí khác nếu có hành vi phạm tội, vi phạm hành chính hay vi phạm dân sự mà đồng thời cũng vi phạm kỷ luật nhà nước.
- Trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm dân sự. Chủ thể phải chịu trách nhiệm dân sự có thể phải gánh chịu các biện pháp chế tài pháp luật như buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; phạt vi phạm... Trách nhiệm dân sự cũng có thể đi kèm các loại trách nhiệm pháp lí khác nếu có hành vi phạm tội, vi phạm hành chính hay vi phạm kỷ luật nhà nước mà những hành vi này cũng xâm hại đến quyền dân sự của cá nhân, tổ chức trong xã hội (mà đồng thời cũng vi phạm dân sự).
3.2 Căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lý
Truy cứu trách nhiệm pháp lí là hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành nhằm cá biệt hoá bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.
Để đảm bảo việc truy cứ trách nhiệm pháp lí chính xác, hoạt động này cần phải tiến hành dựa trên những căn cứ vững chắc. Đó là căn cứ pháp lí và căn cứ thực tế
- Căn cứ pháp lí của việc truy cứ trách nhiệm pháp lí là tổnt thể các quy định của pháp luật được các chủ thể tiến hành sử dụng làm căn cứ cho tất cả các hoạt động trong quá trình truy cứu trách nhiệm pháp lí. Căn cứ pháp lí được pháp luật xác định bao gồm:
+ Các quy định của pháp luật hiện hành xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí. Những quy định này thường được gọi là pháp luật về tố tụng hay pháp luật về thủ tục.
+ Các quy định của pháp luật hiện hành xác định hành vi bị coi là vi phạm pháp luật và biện pháp cưỡng chế dự kiến áp dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi đó, những tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm pháp lí, điều kiện áp dụng một số biện pháp cưỡng chế nhất định, các quy định về hồi tố (nếu có).
- Các quy định của pháp luật hiện hành về thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí là một khoảng thời gian nhất định do pháp luật quy định mà chỉ trong thời hạn đó, chủ thể vi phạm pháp luật mới có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lí, nếu hết thời hạn đó mà hoạt động truy cứu chưa được thực hiện thì họ không bị truy cứu nữa. Tuỳ loại vi phạm mà pháp luật quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí dài, ngắn khác nhau, bên cạnh đó có những vi phạm không có thời hiệu.
- Căn cứ thực tế của việc truy cứu trách nhiệm pháp lí chính là vi phạm pháp luật đã xảy ra trên thực tế được biểu hiện qua các yếu tố cấu thành của vi phạm đó. Cụ thể là
+ Căn cứ và các yếu tố thuộc mặt khách quan của vi phạm pháp luật
+ Căn cứ vào chủ thể của vi phạm pháp luật
+ Căn cứ vào mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
+ Căn cứ vào khách thể của vi phạm pháp luật
Luật Minh Khuê (tổng hợp & phân tích)