Hội nghị Trung ương 7 khoá  XII là Hội nghị quan trong của nước ta, tại đây, Đảng ta đã tổng kết lại một số vấn đề quan trong của đất nước cùng với đó là đề ra những nhiệm vụ, chiến lược quan trọng để thực hiện mục tiêu duy nhất đó là tạo động lực xây dựng đất nước phát triển, hiện đại. Trong các nghị quyết mà Hội nghị Trung ương 7 khoá XII đã thông qua, Nghị quyết số 26/NQ-TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, là nghị quyết được rất nhiều người quan tâm, bài viết dưới đây xin trình bày tóm tắt những vấn đề được đề cập tại nghị quyết này.

 

1. Các nghị quyết mà Hội nghị Trung ương 7 khoá XII đã thông qua

Thứ nhất: Nghi quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Thứ hai: Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.

Thứ ba: Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội

 

2. Nghị quyết số 26-NQ/TW  tập trung XD đội ngũ CB các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ

Tai nghị quyết này đã chỉ ra rất rõ những điểm tích cực và hạn chế của công tác cán bộ, từ đó chỉ ra nguyên nhân và đưa ra hướng khắc phục cũng như những mục tiêu và nhiệm vụ trong tương lai. Cụ thể:

2.1 Về tình hình

Tổng kết sau 20 năm, nhìn chung đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành và phát triển về nhiều mặt, đáp ứng phần nào các yêu cầu và đòi hỏi của thời đại công nghiệp hoá và đổi mới đất nước như: có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức tổ chức, kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện trình độ năng lực, luôn phấn đấu và hoàn thành nhiệm vụ được giao, có tính sáng tạo, năng động và có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế,....Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực, vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế như: đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh, tình trạng vừa thiếu, vừa thừa cán bộ sảy ra ở nhiều nơi; tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra; năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; trình độ ngoại ngữ và kĩ năng giao tiếp của nhiều cán bộ còn hạn chế; quan trọng hơn là không ít cán bộ trẻ thiếu ý chì và lười rèn luyện; một bộ phận cán bộ phai nhạt ý chí, giảm sút lý tưởng và hời hợt trong công tác, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, có biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá; nhiều cán bộ, lãnh đạo có năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Có thể thấy, Nghi quyết đã chỉ ra rất rõ ràng, cụ thể và nhìn nhận một cách tổng thể, khách quan và toàn diện những ưu điểm cũng như hạn chế của đội ngũ cán bộ nước ta, hiện nay. 

 

2.2 Về nguyên nhân

Để tồn tại những hạn chế kể trên, nguyên nhân là do: (1) nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên nhất là những người đứng đầu về cán bộ và công tác cán bộ chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được giáo dục đúng lúc; (2) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức một số nội dung trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ còn thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên, liên tục, chậm thể chế hoá, cụ thể hoá; ít kiểm tra, đôn đốc và chưa có chế tài xử lý nghiêm; (3) một số nội dung trong công tác cán bộ chậm được đổi mới. Chưa có tiêu chí, cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút, trọng dụng nhân tài; chính sách cán bộ còn bất cập, chưa phát huy tốt tiềm năng của cán bộ. Công tác quản lý cán bộ có nơi, có lúc còn buông lỏng; chưa có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người yếu kém, uy tín thấp; (4) Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Thiếu chặt chẽ, hiệu quả trong phối hợp, kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm. Công tác bảo vệ chính trị nôi bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức; (5) chưa phát huy đầy đủ vai trò giám sát của cơ quan dân cử, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội; thiếu cơ chế phù hợp để cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân; chưa phát huy có hiệu quả trách nhiệm của cơ quan truyền thông, báo chí; (5) chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ còn chồng chéo, chậm được đổi mới. Chưa quan tâm đúng mức xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ; năng lực, phẩm chất, uy tín của một số cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Còn coi nhẹ công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về cán bộ và công tác cán bộ.

 

2.3 Về quan điểm, chỉ đạo

Dựa trên tình hình thế giới và khu vực vẫn diễn biến phức tạp và khó lường, sự bùng nổ của khoa học - công nghệ, sự phát triển manh mẽ của kinh tế số, kinh tế tri thức,...Đảng ta nhận định, công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ sẽ chịu tác động mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc. Vì vậy, Đảng ta đã thống nhất rõ quan điểm: (1) Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là nhân tố "then chốt" trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; (2) thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, xây dựng thể chế, tạo môi trường thúc đẩy sáng tạo, phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm vi phạm; (3) tôn trọng và hành đông theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tế, xây dựng đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; (4) quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ, quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; (5) xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là các cấp uỷ, tổ chức Đảng, mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và cơ quan truyền thông báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.

 

2.4 Về mục tiêu

nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu tổng quát và từng mục tiêu cụ thể để có biện pháp thực hiện có hiệu quả, cụ thể. Thứ nhất, Đảng chỉ ra mục tiêu tổng quát cần đạt được đó là xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chiến lược, có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hôi chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Thứ hai, về từng mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020: (1) thể chế hoá, cụ thể hoá Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; (2) hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, xoá bỏ tệ chạy chức, chạy quyền, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tụ chuyển hoá" trong cán bộ, đảng viên; (3) Đẩy manh thực hiên chủ trương bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyên không phải là người địa phương; (4) hoàn thiện việc xây dựng vị trí việc làm và  rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt đông hiệu lực, hiệu quả. Đến năm 2025: (1) tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hoá, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; (2) cơ bản bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh không phải là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện với các chức danh khác; (3) xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định. Đến năm 2030: (1) xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng; (2) cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ....

 

2.5 Về nhiệm vụ, giái pháp chủ yếu

nghị quyết đã đề ra các nhiệm vụ sau: (1) nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống cho cán bộ đảng viên; (2) tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ; (3) xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu trong thời kì mới; (4) tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ; (5) kiểm soát quyền lực chặt chẽ trong công tác cán bộ; chống chạy chức; chạy quyền; (6) phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ; (7) nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ.

 

2.6 Về một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự

Đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc: (1) xây dựng, hoàn thiện các văn bản liên quan đến công tác nhân sự đại hội phù hợp với từng giai đoạn phát triển, nhất là chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp và phương hướng công tác nhân sự sát với tình hình thực tế; (2) rà soát kĩ, bổ sung đầy đủ thông tin, đánh giá chính xác, nắm chắc vấn đề chính; thực hiện việc sắp xếp, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ đủ tiêu chuẩn, điều kiện trên cơ sở quy hoạch để chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng bộ toàn quốc; (3) tổ chức các lớp cán bộ dự nguồn trong quy hoạch ở các cấp để bổ sung, nâng cao kiến thức, hoàn thiện kỹ năng lãnh đạo, quản lý, phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng bộ toàn quốc; (4) Ban thường vụ cấp uỷ từng cấp, căn cứ tình hình cụ thể sử dụng cơ quan chuyên môn một cách phù hợp trong việc tiến hành khảo sát, đánh giá nhân sự theo phân cấp, chủ động chuẩn bị nhân sự đại hội và các công việc cần thiết khác có liên quan.

 

2.7 Về vấn đề trọng tâm và đột phá

nghị quyết đề ra hai trọng tâm và năm đột phá. Hai trọng tâm bao gồm (1) tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; (2) tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư các cấp, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ đông, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Năm đột phá gồm (1) đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: xuyên suốt, liên tục, đa chiều theo tiêu chí bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; (2) kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời, chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền; (3) thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện; (4) cải cách chính sách và tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế chính sách để tạo cạnh tranh, bình đẳng, lành mạnh và thu hút trọng dụng nhân tài; (5) hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thực sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.

 

2.8 Về tổ chức thực hiện

(1) Bộ chính trị ban hành Kế hoạch quán triêt, triển khai thực hiện Nghị quyết, xác định rõ những việc cần làm ngay, những việc làm thường xuyên và những việc theo lộ trình, phân công cụ thể và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện nghị quyết; (2) các thành uỷ, đảng uỷ, đảng đoàn, ban cán sự đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt, chủ động xây dưng kế hoạch, đồ án cụ thể để thực hiện Nghị quyết; (3) Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, khẩn trương thể chế hoá các nội dung của Nghị quyết, nhất là những việc cần phải làm ngay; sớm sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; (4) các ban, cơ quan đảng ở Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ triển khai nghiên cứu, xây dựng, cụ thể hoá Nghị quyết thành các quy định, quy chế, ban hành hướng dẫn và kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; (5) ban tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Bộ chính trị, Ban bí thư xây dựng kế hoạch để triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện và thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết. 

Có thể thấy, thông qua nghị quyết trên, Đảng ta đang thực hiện quyết tâm nỗ lực nâng cao chất lượng cán bộ đảng viên cùng với đó là làm trong sạch bộ máy, quyết tâm xoá bỏ tình trạng tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" ở một bộ phân cán bộ, đảng viên, để góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tăng cường hội nhập quốc tế và thực hiện nhiệm vụ từng bước đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, hiện đại hoá.

Trên đây làm toàn bộ bài thu hoạch về nghị quyết 26-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 7 khoá 12 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Mọi vấn đề quan tâm xin vui lòng liên hệ 19006162 để được hỗ trợ giải quyết