Mục lục bài viết
1. Bảo hộ mậu dịch là gì?
Bảo hộ mậu dịch là thuật ngữ trong kinh tế học quốc tế chỉ việc áp dụng nâng cao một số tiêu chuẩn thuộc các lĩnh vực như chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất xứ, v.v... hay việc áp đặt thuế xuất nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài nhằm bảo vệ ngành sản xuất các mặt hàng tương tự (hay dịch vụ) trong nước.
Đối với thuế quan hay thuế nhập khẩu từ các nước khác, chính phủ các nước sẽ áp đặt mức thuế cao để hạn chế nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài nhằm bảo vệ các ngành và các công ty trong nước. Thuế quan có thể được cụ thể trong đó có một mức thuế suất cố định hoặc mức lệ phí cho mỗi đơn vị sản phẩm hoặc hàng hóa được đưa vào một quốc gia. Ngoài ra còn có thuế quan theo đơn giá hàng được đặt theo tỷ lệ giá trị của sản phẩm được nhập khẩu.
Hạn ngạch là hạn chế trực tiếp về số lượng hàng hóa, sản phẩm nhất định có thể được phép nhập khẩu vào một quốc gia. Ngoài ra còn biện pháp Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER) hoạt động như hạn ngạch thương mại áp đặt bởi một quốc gia xuất khẩu. VER có thể được thể hiện dưới hình thức áp lực chính trị từ một quốc gia lên một quốc gia khác để ngăn chặn việc xuất khẩu hàng hóa.
Ngoài thuế quan và hạn ngạch, còn có một số rào cản thương mại khác mà chính phủ các quốc gia có thể sử dụng để hạn chế nhập khẩu hoặc kích thích xuất khẩu. Bất chấp thành công tương đối của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong việc khuyến khích các cuộc đàm phán đa phương nhằm giảm hàng rào thuế quan và phân xử các tranh chấp thương mại thì rào cản vẫn còn tồn tại.
Chính phủ ủng hộ các công ty trong nước, đây là một hình thức mà các quốc gia dùng để bảo vệ ngành công nghiệp trong nước. Chính phủ các quốc gia này sử dụng chính sách mua sắm công, trong đó ủng hộ các công ty trong nước. Ví dụ, chính quyền địa phương hoặc quốc gia có thể mua vật tư thiết bị quân sự hoặc y tế từ các công ty địa phương. Trong khi nhiều thành viên của WTO đã đăng ký Hiệp định về Mua sắm Chính phủ (GPA) nhưng đa số các nước vẫn chưa đăng ký các sáng kiến để việc mua sắm quốc gia được mở rộng hơn, tạo cơ hội cạnh tranh cho các quốc gia khác.
Chính phủ cũng có thể trợ cấp cho các công ty trong nước, những công ty này sau đó sẽ đưa ra nhiều chương trình giảm giá. Khoản hỗ trợ tài chính này cũng có thể dưới hình thức hỗ trợ xuất khẩu, tạo động lực cho các doanh nghiệp. Các khoản trợ cấp như vậy còn có thể dưới hình thức viện trợ cho các dự án khởi nghiệp, những dự án lớn ví dụ như EU viện trợ cho sự phát triển của hãng Airbus, Hoa Kỳ hỗ trợ cho hãng Boeing.
Chính phủ các quốc gia còn có thể đặt ra các tiêu chuẩn chất lượng cao, gây khó khăn cho các nhà sản xuất nước ngoài.
Chính sách chống bán phá giá được ban hành bởi một quốc gia nhằm ngăn chặn việc bán hàng hóa ở thị trường nước ngoài với mức giá thấp hơn nhiều so với chi phí sản xuất nhằm giành thị phần đáng kể tại quốc gia đó.
Một vấn đề khác liên quan đến quá trình xuất nhập khẩu có thể gây ra hạn chế giao dịch đối với các công ty nước ngoài. Ví dụ, nhiều thủ tục giấy tờ phức tạp và không liên quan đến các giao dịch quốc tế sẽ được yêu cầu.
Bên cạnh đó, việc các nước cố tình hạ tỷ giá để kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cũng là một trong những biện pháp bảo hộ mậu dịch nhằm tạo rào cản thương mại đối với các nước khác.
2. Lý thuyết và thực tế
Về lý thuyết, việc áp đặt các tiêu chuẩn nói trên thuộc về lĩnh vực kinh tế học vĩ mô, được các chính phủ áp dụng khi các báo cáo thống kê và các phân tích kinh tế-xã hội cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của việc nhập khẩu đối với sản xuất trong nước dường như lớn hơn so với lợi ích mà việc này.
- Đối với các quốc gia đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì việc áp đặt này chỉ được phép đối với một hay nhiều thành viên khác của WTO khi và chỉ khi phán quyết của WTO cho phép quốc gia này làm điều đó (với các chứng cứ cho thấy các thành viên kia đang thực hiện việc bán phá giá hay hỗ trợ bất hợp pháp cho ngành sản xuất của mình v.v).
- Đối với các quốc gia chưa gia nhập WTO hoặc quốc gia là thành viên của WTO áp đặt đối với các quốc gia chưa là thành viên WTO hay ngược lại: Việc áp đặt này hoàn toàn nằm trong ý chí chủ quan của từng quốc gia hoặc sau khi nhận được đơn kiện của các (nhóm, hiệp hội) công ty tại quốc gia đó về việc bán phá giá. Các vụ kiện tôm hay cá tra, cá ba sa tại Mỹ vừa qua đối với các quốc gia xuất khẩu các mặt hàng này là một ví dụ cho thấy việc áp đặt bảo hộ mậu dịch.
Ngân hàng Thế giới ước tính nếu các rào cản thương mại hoàn toàn được dỡ bỏ thì sẽ có thêm hàng chục triệu người nữa được thoát nghèo... Thương mại và tự do hóa thương mại thậm chí có thể còn là những công cụ hữu hiệu hơn để xóa đói, giảm nghèo và giúp cho các quốc gia có nguồn lực kinh tế để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết nhất của họ. Cũng theo Ngân hàng Thế giới, chỉ riêng việc xóa bỏ các rào cản thương mại đối với hàng hóa, mỗi năm các quốc gia đang phát triển cũng có thể tăng thêm thu nhập 142 tỷ USD. Con số đó có thể sẽ cao hơn 80 tỷ USD viện trợ kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trong năm 2005 và cao hơn 42,5 tỷ USD tổng các khoản nợ dự kiến được giảm cho các nước đang phát triển.
Trên thực tế, các yếu tố chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của một chính phủ trong bảo hộ mậu dịch. Còn một thực tế khác là điều trái ngược xảy ra ngay tại quốc gia kêu gọi chủ trương tự do thương mại toàn cầu. Các nhà sản xuất Hoa Kỳ - thay vì tăng cường hiệu năng sản xuất để nâng cao tính cạnh tranh, lại sẵn sàng chi tiền để vận động những nhà lập pháp và hành pháp nhằm đưa ra những luật lệ bất bình đẳng. Việc làm đó bị coi là cổ vũ cho chủ nghĩa bảo hộ chứ không phải là tự do mậu dịch.
3. Chống bảo hộ mậu dịch
Ngày 14 tháng 2 năm 2009, các bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương các thành viên nhóm 7 nước công nghiệp phát triển nhất thế giới (G7) nhóm họp tại Roma, Ý, với trọng tâm là soạn thảo những quy định chung đối phó với khủng hoảng kinh tế và đấu tranh chống những quyết định bảo hộ mậu dịch.
Trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên với tư cách là Tổng thống Hoa Kỳ, ông Barack Obama hôm 19 tháng 2 năm 2009 đã cam kết hợp tác với Canada về năng lượng, phục hồi kinh tế và Afghanistan, đảm bảo với Canada rằng ông sẽ không theo đuổi các chính sách bảo hộ mậu dịch.
Trong tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh khẩn cấp về kinh tế ngày 1 đến 3 tháng 3 năm 2009 tại Brussels Bỉ, các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU) đã cam kết chống các hình thức bảo hộ mậu dịch trên thị trường chung của khối. Thông điệp mạnh mẽ này được EU đưa ra trong bối cảnh có nhiều lo ngại về sự xuất hiện trở lại của chủ nghĩa bảo hộ ở châu Âu, đặc biệt sau khi Pháp công bố những khoản viện trợ lớn cho ngành chế tạo xe hơi trong nước. Ủy ban châu Âu (EC) tới đây sẽ xem xét và ra quyết định về việc Pháp cho vay ưu đãi 6 tỷ euro để ngành ô tô vượt qua khủng hoảng có vi phạm "bảo hộ mậu dịch" hay không.
Việc Bắc Kinh chuyển đến các chính quyền địa phương khẩu hiệu "hãy mua hàng Trung Quốc" đang gây nên lo ngại sự trở lại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và những biện pháp trả đũa.
4. Chủ nghĩa bảo hộ là gì?
Chủ nghĩa bảo hộ (protectionism) là chính sách của chính phủ nhằm bảo vệ một số nhà sản xuất trong nước chống lại sự cạnh tranh của nước ngoài thông qua việc dựng lên các hàng rào đối với thương mại quốc tế, chẳng hạn thuế quan và hạn ngạch. Có nhiều luận cứ ủng hộ chủ nghĩa bảo hộ như lao động rẻ mạt, duy trì sự cân bằng cán cân thanh toán, bảo vệ nền công nghiệp non trẻ, cải thiện tỷ lệ trao đổi, nhưng nhìn chung chúng chỉ phục vụ cho lợi ích cục bộ của từng ngành hoặc địa phương, ít khi thực sự phục vụ cho lợi ích quốc gia và quốc tế.
(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)
Theo Tổ chức Cảnh báo thương mại toàn cầu (Global Trade Alert - GTA), Chỉ số đo lường tác động của chính sách bảo hộ thương mại tại mỗi quốc gia do GTA thực hiện đều dương trong giai đoạn từ năm 2009 tới tháng 8/2018. Số liệu này cho thấy, thương mại toàn cầu đang nghiêng theo xu hướng bảo hộ. Con số không ngừng gia tăng cũng thể hiện chủ nghĩa bảo hộ đang lan rộng, với tác động ở mức cao hơn 2,5 lần so với năm 2010. Đáng chú ý, 73% hoạt động xuất khẩu của các quốc gia thuộc nhóm G20 đã đối diện với các chính sách hạn chế thương mại năm 2017, theo số liệu của GTA.
5. Ảnh hưởng của chủ nghĩa bảo hộ
Có sự đồng thuận rộng rãi giữa các nhà kinh tế rằng chủ nghĩa bảo hộ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và phúc lợi kinh tế, trong khi thương mại tự do và sự giảm rào cản thương mại có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
Chủ nghĩa bảo hộ thường bị các nhà kinh tế chỉ trích vì làm tổn hại đến những người mà đáng lẽ ra phải được giúp đỡ từ chủ nghĩa này. Hầu hết các nhà kinh tế thay vào đó ủng hộ thương mại tự do. Nguyên tắc lợi thế so sánh cho thấy lợi ích từ giao dịch tự do lớn hơn bất kỳ tổn thất nào có thể xảy ra vì giao dịch tự do tạo ra nhiều công việc hơn là hạn chế do nó cho phép các nước chuyên sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà họ có lợi thế hơn so với các nước khác. Bảo hộ dẫn đến tổn thất nặng; sự mất mát này đối với phúc lợi chung và không mang lại lợi ích cho bất cứ bên nào, không giống như trong một thị trường tự do, nơi mà không có tổn thất tổng thể như vậy. Theo nhà kinh tế học Stephen P. Magee, lợi ích của thương mại tự do lớn hơn nhược điểm của nó như 100 với 1 vậy.
Chủ nghĩa bảo hộ cũng bị cáo buộc là một trong những nguyên nhân chính gây ra chiến tranh. Những người ủng hộ lý thuyết này chỉ ra chiến tranh liên tục trong thế kỷ 17 và 18 ở các nước châu Âu mà chính phủ chủ yếu là người bảo thủ và bảo hộ, Cách mạng Mỹ cũng xuất phát từ biểu thuế và thuế hải quan của Anh, cũng như các chính sách bảo hộ trước Chiến tranh thế giới I và Thế chiến II. Theo một khẩu hiệu của Frédéric Bastiat (1801–1850), "Khi hàng hóa không thể vượt qua biên giới, quân đội sẽ sẽ là người vượt qua nó"