1. Hội đồng xét xử phúc thẩm

Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo khoản 2 Điều 254 Bộ luật Tố tụng hình sự, hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 03 Thẩm phán.

Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đánh giá tính chất đúng đắn của bản án sơ thẩm và trong phạm vi quyền hạn cùa mình, khắc phục những thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm. Do đó, Hội đông xét xử phúc thẩm phải gồm ba thẩm phán và Tòa án cấp phúc thẩm không được thay thế thẩm phán bằng hội thẩm nhân dân.

2. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo BLTTHS 2003

Theo khoản 2 Điều 248 BLTTHS 2003, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định:

  • Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
  • Sửa bản án sơ thẩm;
  • Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
  • Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.

- Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:

  • Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo;
  • Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
  • Giảm hình phạt cho bị cáo;
  • Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;
  • Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.

3. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo BLTTHS 2015

 Theo khoản 1 Điều 355 BLTTHS 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền:

a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;

b) Sửa bản án sơ thẩm;

c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;

d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án;

đ) Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.

Theo Điều 357 BLTTHS 2015, khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:

  • Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp;
  • Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
  • Giảm hình phạt cho bị cáo;
  • Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;
  • Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn;
  • Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.

Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể:

  • Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp;
  • Tăng mức bồi thường thiệt hại;
  • Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn;
  • Không cho bị cáo hưởng án treo.

Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.

4. Một số thẩm quyền mới của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong BLTTHS 2015

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung thẩm quyền của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm, khắc phục vướng mắc hiện nay do Hội đồng xét xử phúc thẩm không có đầy đủ thẩm quyền trong việc hủy, sửa bản án sơ thẩm nên phải kiến nghị Tòa án cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm kéo dài vụ án không cần thiết, cụ thể như sau:

- Bổ sung quy định cho Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền áp dụng hình phạt bổ sung, áp dụng biện pháp tư pháp, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn hoặc không cho bị cáo hưởng án treo (Điều 357). Đồng thời, để bảo đảm tính chặt chẽ, rõ ràng và thống nhất với các điều luật khác quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Điều luật này còn bổ sung quy định về căn cứ để sửa bản án sơ thẩm, đó là khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới.

- Bổ sung 02 trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, đó là: (1) Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm; (2) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố; bổ sung 02 trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, đó là: (1) Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ; (2) Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án (Điều 358).

5. Phân tích thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm

Căn cứ pháp lý: Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm:

Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm khi xét thấy các quyết định của bản án sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật.

- Sửa bản án sơ thẩm:

Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:

  • Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp;
  • Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
  • Giảm hình phạt cho bị cáo;
  • Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng
  • Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn;
  • Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.

Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể:

  • Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp;
  • Tăng mức bồi thường thiệt hại;
  • Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn;
  • Không cho bị cáo hưởng án treo.

Một lưu ý là nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại. Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.

- Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại:

Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp:

  • Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm;
  • Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được;
  • Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố.

Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong các trường hợp:

  • Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng thành phần mà Bộ luật này quy định;
  • Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm;
  • Người được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội;
  • Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ;
  • Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của BLTTHS năm 2015

Khi hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Hội đồng xét xử phúc thẩm phải ghi rõ lý do của việc hủy bản án sơ thẩm.

Khi hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, Hội đồng xét xử phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự cần áp dụng và hình phạt đối với bị cáo.

Trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy cần phải tiếp tục tạm giam bị cáo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung.

- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án:

Khi có một trong các căn cứ sau thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.

  • Không có sự việc phạm tội;
  • Hành vi không cấu thành tội phạm

Khi có một trong các căn cứ sau thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.

  • Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
  • Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
  • Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
  • Tội phạm đã được đại xá;
  • Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
- Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm:
Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm khi người kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút toàn bộ kháng nghị. 
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)