Mục lục bài viết
1. Định nghĩa bức cung
Bức cung là hành vi của người có trách nhiệm lấy lời khai trong hoạt động tư pháp đã sử dụng những thủ đoạn khác nhau cưỡng ép người bị lấy lời khai phải khai sai những điều họ biết.
2. Chủ thể của hành vi bức cung
Chủ thể của hành vi bức cung là người: có trách nhiệm lấy lời khai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Họ có thể là Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán. Đối tượng của hành vi này có thể. là bị can, bị cáo, người bị hại hoặc người làm chứng. Thủ đoạn mà người bức cung sử dụng để cưỡng ép người bị lấy lời khai phải khai sai sự thật có thể là: đe dọa sẽ dùng nhục hình; đe dọa sẽ xử nặng; đe dọa sẽ bắt giam, sẽ xét xử người thân thích..
3. Tác động tiêu cực của hành vi bức cung
Bức cung không chỉ xâm phạm quyền nhân thân của người bị lấy lời khai mà còn có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như dẫn đến bắt giam sai, xử sai, xử oan, bỏ lọt người phạm tội, xử quá nặng hoặc quá nhẹ...
4. Hậu quả khi thực hiện hành vi bức cung
Do có tính nguy hiểm cho xã hội như vậy nên bức cung luôn bị coi là hành vi trái pháp luật và bị pháp luật nghiêm cấm. Để góp phần đấu tranh có hiệu quả, ngăn ngừa hành vi bức cung, luật hình sự Việt Nam đã quy định hành vì bức cung là tội phạm trong những trường hợp nhất định. Đó là tội bức cung được quy định trong luật hình sự Việt Nam ngay từ khi có Bộ luật hình sự đầu tiên - Bộ luật hình sự năm 1985 và tiếp tục được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 với mức xử phạt nghiêm khắc hơn. Trong hai bộ luật này, tội bức cung đều được quy định trong Chương “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp". Theo đó, hành vi bức cung bị coi là tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng. Đó có thể là hậu quả bắt giam người sai hoặc xét xử sai (xử oan, bỏ lọt tội phạm, xử quá nặng hoặc quá nhẹ...). Hình phạt cao nhất có thể áp dụng cho người phạm tội này là hình phạt tù tới 10 năm và kèm theo đó là hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ đến 5 năm.
Tội bức cung được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 tại Điều 299 với 4 khoản (Khoản 1 quy định tình tiết định tội; Khoản 2,3 quy định tình tiết định khung tăng nặng; Khoản 4 quy định hình phạt bổ sung).
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định Tội bức cung tại Điều 374 với 5 khoản (Khoản 1 quy định tình tiết định tội; Khoản 2, 3, 4 quy định tình tiết định khung tăng nặng; Khoản 5 quy định hình phạt bổ sung). Trong đó, Khoản 3 Điều 374 BLHS năm 2015 nặng hơn (phạt tù từ 07 năm đến 12 năm) so với Khoản 3 Điều 299 BLHS năm 1999 (phạt tù từ 05 năm đến 10 năm).
Điều 374. Tội bức cung
"1. Người nào trong hoạt động tố tụng mà sử dụng thủ đoạn trái pháp luật ép buộc người bị lấy lời khai, hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
d) Dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, hỏi cung;
đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
e) Làm sai lệch kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;
g) Ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Làm người bị bức cung tự sát;
b) Dẫn đến bỏ lọt tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm người bị bức cung chết;
b) Dẫn đến làm oan người vô tội;
c) Dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm."
5. Điểm mới trong quy định về Tội bức cung của Bộ luật Hình sự hiện nay
BLHS năm 2015 đã bổ sung mới khung hình phạt tại Khoản 4 Điều 374 với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Điểm mới này thể hiện tính răn đe nghiêm khắc hơn của pháp luật hình sự đối với tội phạm bức cung, nâng cao ý thức tuân thủ trình tự, thủ tục tố tụng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp 2013. Cụ thể:
a) Điều chỉnh khung hình phạt
Tội bức cung được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 tại Điều 299 với 4 khoản (Khoản 1 quy định tình tiết định tội; Khoản 2,3 quy định tình tiết định khung tăng nặng; Khoản 4 quy định hình phạt bổ sung).
BLHS năm 2015 quy định Tội bức cung tại Điều 374 với 5 khoản (Khoản 1 quy định tình tiết định tội; Khoản 2, 3, 4 quy định tình tiết định khung tăng nặng; Khoản 5 quy định hình phạt bổ sung). Trong đó, Khoản 3 Điều 374 BLHS năm 2015 nặng hơn (phạt tù từ 07 năm đến 12 năm) so với Khoản 3 Điều 299 BLHS năm 1999 (phạt tù từ 05 năm đến 10 năm). Ngoài ra, BLHS năm 2015 đã bổ sung mới khung hình phạt tại Khoản 4 Điều 374 với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Điểm mới này thể hiện tính răn đe nghiêm khắc hơn của pháp luật hình sự đối với tội phạm bức cung, nâng cao ý thức tuân thủ trình tự, thủ tục tố tụng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp 2013.
b) Về cấu thành cơ bản
Thứ nhất, BLHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “trong hoạt động tố tụng” thay thế cho thuật ngữ “tiến hành điều tra, truy tố, xét xử”. Như vậy, diện đối tượng phạm tội bức cung đã được mở rộng hơn, bởi lẽ “người nào trong hoạt động tố tụng” đã bao trùm “người nào tiến hành điều tra, truy tố, xét xử”. Điểm mới này đã khắc phục thiếu sót trong thực tiễn, phù hợp với quy định của Bộ luật TTHS 2015 trong những trường hợp người có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng nhưng không phải là người tiến hành điều tra, truy tố, xét xử. Cơ quan điều tra VKSND tối cao cần chú ý điểm mới này để xác định đúng đối tượng thuộc thẩm quyền điều tra. Ví dụ: Đối tượng là Công an cấp xã, phường, thị trấn phạm tội bức cung khi tiếp nhận người đầu thú, tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm, lấy lời khai ban đầu…
Thứ hai, BLHS 2015 sử dụng thuật ngữ “người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung” thay thế cho thuật ngữ “người bị thẩm vấn”, phù hợp với nội dung quy định của Bộ luật TTHS về hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại…
Thứ ba, theo quy định Điều 299 BLHS 1999, chỉ khi thực hiện hành vi ép buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng mới cấu thành tội phạm bức cung. Nhưng theo quy định tại Điều 374 BLHS 2015 thì chỉ cần thực hiện hành vi ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc thì đã cấu thành tội bức cung mà không bắt buộc thông tin đó là sai sự thật. Đây là điểm mới rất quan trọng cần được quán triệt nắm vững trong nhận thức. Điểm mới này nhằm đảm bảo quyền con người và hạn chế việc bức cung của những người có thẩm quyền tố tụng.
c) Cụ thể hóa các tình tiết định khung
BLHS 2015 đã quy định cụ thể, rõ ràng các trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự của Tội bức cung tại các Khoản 2,3,4 Điều 374, thay thế cho các quy định mang tính định tính trong BLHS 1999 “Gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Cụ thể như sau:
Khoản 2 Điều 374 BLHS 2015 quy định phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Phạm tội 02 lần trở lên; b) Đối với 02 người trở lên; c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; d) Dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung; đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; e) Dẫn đến làm sai lệch kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; g) Ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật.
Như vậy, BLHS 1999 quy định hành vi “buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật” là dấu hiệu định tội của Tội bức cung thì BLHS 2015 đã quy định hành vi “ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật” là tình tiết định khung tăng nặng tại Điểm g Khoản 2 Điều 374.
Mặt khác, BLHS 2015 quy định hành vi “dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung” là tình tiết định khung tăng nặng của Tội bức cung tại Điểm d Khoản 2 Điều 374. Tuy nhiên đây cũng là những hành vi được mô tả trong cấu thành cơ bản của Tội dùng nhục hình. Do đó, cần xác định mục đích của hành vi trên để phân biệt trường hợp phạm tội “dùng nhục hình” với trường hợp phạm tội “bức cung” mà dùng nhục hình (Điểm d Khoản 2 Điều 374).
Khoản 3 Điều 374 BLHS 2015 quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: a) Làm người bị bức cung tự sát; b) Dẫn đến bỏ lọt tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
Khoản 4 Điều 374 BLHS 2015 quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Làm người bị bức cung chết; b) Dẫn đến làm oan người vô tội; c) Dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
d) Về hình phạt bổ sung
So với BLHS 1999 thì Khoản 5 Điều 374 BLHS 2015 đã quy định hình phạt bổ sung đối với Tội bức cung với điểm mới là cụm từ “cấm hành nghề”. Cụ thể: “Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm”.
Xét thấy, quy định về hình phạt bổ sung đối với Tội bức cung trong cả hai điều luật như trên là chưa hoàn toàn chính xác, bởi lẽ hình phạt bổ sung trong BLHS được quy định đầy đủ là “Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định”.
Luật Minh Khuê (tổng hợp và phân tích)