1. Kiểm soát môi trường là gì?

Theo khoản 18 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014, kiểm soát ô nhiễm môi trường được định nghĩa là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm. Tuy nhiên, so với khái niệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường có nội hàm rộng hơn và bao quát nhiều khía cạnh hơn, bám sát thực tiễn và đáp ứng những thách thức pháp lý và môi trường hiện đại.

Đầu tiên, mục đích chính của việc kiểm soát ô nhiễm môi trường là tập trung vào việc phòng ngừa và khống chế để không để ô nhiễm môi trường xảy ra. Điều này đồng nghĩa với việc kiểm soát ô nhiễm trở thành một quá trình proactively chủ động của con người, hướng đến việc ngăn chặn các tác động xấu đến môi trường từ các hoạt động phát triển kinh tế và xã hội.

Bên cạnh đó, kiểm soát ô nhiễm môi trường không chỉ phụ thuộc vào sự tham gia của Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quản lý môi trường, mà còn bao gồm sự đóng góp và trách nhiệm của các doanh nghiệp, cộng đồng dân cư, hiệp hội ngành nghề, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong xã hội. Điều này tạo nên một cơ chế phân cấp và đa cấp trong việc quản lý và giải quyết ô nhiễm môi trường.

Để thực hiện kiểm soát ô nhiễm môi trường, các biện pháp không chỉ bám sát vào các mệnh lệnh và cơ chế kiểm soát thông thường, mà còn sử dụng một cách đồng bộ và linh hoạt các công cụ kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, và cả yếu tố xã hội và thị trường. Điều này đặt nhấn mạnh vào vai trò của yếu tố thị trường và xã hội trong việc tạo ra sự cân nhắc và lựa chọn các giải pháp hiệu quả cho kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Nội dung chính của hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường (hay còn gọi là các hình thức pháp lí của kiểm soát ô nhiễm môi trường) đề cập đến một loạt các biện pháp cụ thể. Điển hình là việc thu thập, quản lý và công bố các thông tin về môi trường để tăng cường kiểm soát và đánh giá tình hình ô nhiễm. Tiếp theo, việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch kiểm soát ô nhiễm để hướng dẫn và định hình hoạt động. Bên cạnh đó, việc ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường chất lượng để đảm bảo tuân thủ và đo lường mức độ ô nhiễm. Ngoài ra, quản lí chất thải, xử lí và khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm cũng là các yếu tố cốt yếu của hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Tóm lại, khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường vượt trội hơn khái niệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, vì nó bao gồm một loạt các khía cạnh và cơ chế đa dạng nhằm đảm bảo tính hiệu quả và pháp lý trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm môi trường. Việc thúc đẩy mô hình kiểm soát ô nhiễm môi trường này không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là sự hợp tác và tham gia tích cực của toàn xã hội, đồng hành cùng nhau vì môi trường bền vững và bảo vệ hành tinh chung ta.

 

2. Các hình thức pháp lí của kiểm soát ô nhiễm môi trường

2.1 Thu thập, quản lí và công bố thông tin môi trường 

Thu thập, quản lí và công bố thông tin môi trường là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng để kiểm soát và giảm ô nhiễm môi trường. Thông tin môi trường là những dữ liệu, số liệu, hình ảnh, âm thanh hoặc các dạng tương tự liên quan đến môi trường. Điều này bao gồm thông tin về thành phần môi trường, tác động đối với môi trường, chính sách và pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường, cũng như các hoạt động bảo vệ môi trường.

Vì tính phức tạp và đa dạng của thông tin môi trường, việc thu thập và quản lí chúng là một thách thức lớn. Điều này đòi hỏi sự hỗ trợ của các biện pháp, cách thức và công cụ kỹ thuật, như các hệ thống quan trắc môi trường, chương trình quan trắc môi trường và các hoạt động quan trắc môi trường.

Mỗi thành phần môi trường đòi hỏi cách thu thập và hiển thị thông tin riêng biệt. Chỉ thị môi trường được sử dụng để phản ánh những thông số cơ bản liên quan đến môi trường, phục vụ cho mục đích đánh giá và theo dõi chất lượng môi trường cũng như lập báo cáo hiện trạng môi trường.

Thông tin môi trường phải được thu thập và quản lí theo quy định của pháp luật. Cơ quan chủ trì bao gồm Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng với các cơ quan, địa phương khác có trách nhiệm thu thập và quản lí thông tin môi trường. Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cũng phải lập hồ sơ môi trường và cung cấp thông tin về tác động đối với môi trường từ hoạt động của họ.

Thông tin môi trường cần được công bố và cung cấp cho các đối tượng có liên quan theo quy định của luật định. Điều này bao gồm việc công khai báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, thông tin về nguồn thải, chất thải và xử lý chất thải, cũng như kết quả thanh tra và kiểm tra về bảo vệ môi trường.

Để tăng tính minh bạch, các cơ quan công khai thông tin môi trường phải đảm bảo tính chính xác của thông tin đưa ra. Hơn nữa, các cơ quan địa phương cần chủ trì và phối hợp với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn để công khai thông tin môi trường cho cộng đồng dân cư. Trong trường hợp bị ảnh hưởng bởi hoạt động của các cơ sở này, đại diện cộng đồng dân cư cũng có quyền yêu cầu cung cấp thông tin về bảo vệ môi trường qua đối thoại trực tiếp hoặc bằng văn bản.

Tổng kết lại, việc thu thập, quản lí và công bố thông tin môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát và giảm ô nhiễm môi trường. Để đạt được điều này, các cơ quan chính trị và cơ quan quản lý cần hợp tác chặt chẽ để đảm bảo tính minh bạch và chính xác của thông tin môi trường.

 

2.2 Quy hoạch bảo vệ môi trường 

Quy hoạch bảo vệ môi trường là một quá trình phức tạp và cần thiết để bảo tồn, phát triển và thiết lập hệ thống hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường, nhằm đảm bảo phát triển bền vững và hài hoà với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội (theo khoản 21 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Quy hoạch này được thực hiện theo nguyên tắc phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội và quy hoạch tổng thể. Nó cũng liên kết chặt chẽ với chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, quy hoạch sử dụng đất và các nguyên tắc bảo vệ môi trường đã được quy định pháp luật.

Việc lập quy hoạch bảo vệ môi trường phải tuân theo những nguyên tắc nào đó, gồm bảo đảm tính phù hợp với các yếu tố tự nhiên, kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh; đảm bảo sự thống nhất với các quy hoạch khác như quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tổng thể và quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia; bảo đảm tính thống nhất trong nội dung của quy hoạch bảo vệ môi trường và tuân thủ các nguyên tắc bảo vệ môi trường theo quy định (khoản 1 Điều 8 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Các nguyên tắc này đảm bảo rằng việc bảo vệ môi trường trở thành trách nhiệm và nghĩa vụ của tất cả các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân; bảo vệ môi trường phải đi đôi với sự phát triển kinh tế và an sinh xã hội; bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu để tạo ra môi trường trong lành cho mọi người; bảo vệ môi trường phải được thực hiện dựa trên sử dụng hợp lý tài nguyên và giảm thiểu chất thải; bảo vệ môi trường quốc gia phải được đồng thời với việc bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu; bảo vệ môi trường không được gây hại cho chủ quyền và an ninh quốc gia; bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa, lịch sử và trình độ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; hoạt động bảo vệ môi trường phải được tiến hành thường xuyên và ưu tiên phòng ngừa ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường (khoản 1 Điều 8 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Quy hoạch bảo vệ môi trường được thực hiện ở hai cấp độ, đó là quy hoạch bảo vệ môi trường cấp quốc gia và quy hoạch bảo vệ môi trường cấp tỉnh. Thời hạn thực hiện quy hoạch là 10 năm và có thể kéo dài đến 20 năm (khoản 1 Điều 9 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Quy hoạch bảo vệ môi trường cấp quốc gia bao gồm nhiều nội dung quan trọng như đánh giá hiện trạng môi trường, quản lý môi trường, dự báo xu thế diễn biến môi trường và biến đổi khí hậu; phân vùng môi trường; bảo tồn đa dạng sinh học và môi trường rừng; quản lý môi trường biển, hải đảo và lưu vực sông; quản lý chất thải; hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường; hệ thống quan trắc môi trường và các bản đồ quy hoạch thể hiện những nội dung trên; đồng thời cũng phải xác định nguồn lực thực hiện quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch (khoản 1 Điều 9 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Còn quy hoạch bảo vệ môi trường cấp tỉnh được thực hiện một cách linh hoạt và tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của địa phương. Nó có thể được lập riêng hoặc tích hợp vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của địa phương (khoản 2 Điều 9 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Tại cấp quốc gia, Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm lập quy hoạch bảo vệ môi trường cấp quốc gia, trong khi ở cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm xây dựng nội dung hoặc lập quy hoạch bảo vệ môi trường trên địa bàn (Điều 10 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Trong quá trình lập quy hoạch bảo vệ môi trường, việc lấy ý kiến và tham vấn các chủ thể có liên quan là vô cùng quan trọng. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ lấy ý kiến từ các bộ, ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh thông qua việc gửi văn bản và tổ chức tham vấn các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc lập quy hoạch bảo vệ môi trường cấp quốc gia. Còn ở cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ lấy ý kiến từ các sở, ngành, ủy ban nhân dân cấp huyện thông qua việc gửi văn bản và tổ chức tham vấn các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường cấp tỉnh (khoản 1 Điều 11 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Sau khi lập quy hoạch bảo vệ môi trường, nó phải được thẩm định và phê duyệt. Hội đồng thẩm định liên ngành do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì và trình Thủ tướng Chính phủ để được phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường cấp quốc gia. Còn tại cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ tổ chức thẩm định và phê duyệt báo cáo quy hoạch bảo vệ môi trường cấp tỉnh sau khi lấy ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường bằng văn bản (khoản 2 Điều 11 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Sau khi quy hoạch bảo vệ môi trường đã được thực hiện, việc xem xét, rà soát và đánh giá quá trình thực hiện là bước tiếp theo. Điều này cần được tiến hành định kỳ để điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn. Thời hạn rà soát định kỳ của quy hoạch là 5 năm kể từ ngày quy hoạch bảo vệ môi trường được phê duyệt (khoản 2 Điều 12 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Việc điều chỉnh quy hoạch bảo vệ môi trường sẽ được thực hiện khi có sự điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng và an ninh của quốc gia, của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quy hoạch này sẽ tuân thủ các quy định tương tự như khi lập mới quy hoạch (khoản 2 Điều 12 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Tất cả những quy định này nhằm đảm bảo tính pháp lý và hiệu quả trong việc bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.

 

2.3 Ban hành và áp dụng hệ thống quy chuẩn kĩ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường

Hệ thống quy chuẩn kĩ thuật môi trường được xem là một trong những công cụ pháp lí quan trọng và cần thiết nhất để thực hiện kiểm soát ô nhiễm môi trường. Quy chuẩn kĩ thuật môi trường mang tính chất cơ sở khoa học vô cùng quan trọng, hướng tới xác định chất lượng môi trường sống của con người và đo lường mức độ ô nhiễm cho từng thành phần môi trường cụ thể. Đồng thời, nó định hình các biện pháp ngăn chặn và khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm. Từ đó, quy chuẩn kĩ thuật môi trường cung cấp căn cứ khoa học và pháp lí đáng tin cậy để quản lí và bảo vệ môi trường, đánh giá tình hình môi trường, và dự báo tương lai về môi trường.

Vai trò quan trọng của hệ thống quy chuẩn kĩ thuật môi trường hiển nhiên thể hiện qua các khía cạnh đáng chú ý. Trước tiên, quy chuẩn kĩ thuật môi trường là tiêu chuẩn khoa học và kỹ thuật dẫn đầu, giúp xác định chính xác chất lượng môi trường, từ đó định rõ mức độ ô nhiễm đối với từng thành phần môi trường cụ thể và xác định các giới hạn an toàn. Quy chuẩn này là căn cứ để đánh giá hiện trạng môi trường và dự báo tình hình môi trường trong tương lai, tạo ra một cơ sở chắc chắn cho việc đưa ra các quyết định chiến lược và kế hoạch hành động.

Thứ hai, quy chuẩn kĩ thuật môi trường cũng là công cụ quan trọng để các chủ thể có nhu cầu khai thác, sử dụng các thành phần môi trường hiểu rõ phạm vi và giới hạn mà họ được phép tác động đến môi trường. Nó mang đến hiểu biết sâu hơn về điều kiện môi trường mà họ sống và hoạt động, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để họ có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với môi trường. Điều này thể hiện rõ vai trò của quy chuẩn kĩ thuật môi trường là một công cụ hỗ trợ và thúc đẩy sự tương tác hài hòa giữa con người và môi trường.

Thứ ba, quy chuẩn kĩ thuật môi trường chính là căn cứ pháp lí để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả mà con người gây ra đối với môi trường. Nó giúp cho các chủ thể có thẩm quyền xác định trách nhiệm pháp lí tương ứng khi vi phạm quy định về môi trường. Việc xác định rõ ràng các giới hạn an toàn và mức độ chấp nhận được giúp đảm bảo rằng mọi hành vi tác động đến môi trường đều được giám sát và điều chỉnh đúng mức, từ đó hạn chế tối đa tác động xấu đến môi trường và sức khỏe con người.

Nhìn vào điểm mạnh và vai trò đa diện của quy chuẩn kĩ thuật môi trường, chúng ta có thể hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường chất lượng. Từ việc giám sát thông số môi trường, xác định các yếu tố nguy cơ, đến việc đưa ra các giới hạn an toàn và phạm vi cho phép, quy chuẩn kĩ thuật môi trường đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đảm bảo sự cân nhắc và thúc đẩy sự hài hòa giữa con người và môi trường.

Hệ thống quy chuẩn kĩ thuật môi trường đóng vai trò hai mặt vừa là quy phạm pháp luật vừa là quy phạm kỹ thuật, nhờ vào sự kết hợp hài hòa giữa những thuộc tính cơ bản của các thành phần môi trường và các yêu cầu pháp lý được thể hiện qua văn bản quy phạm pháp luật ban hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chức năng này của quy chuẩn kĩ thuật môi trường là điều chỉnh hành vi của con người trong việc khai thác, sử dụng và tác động đến các yếu tố môi trường khác nhau.

Để đáp ứng các yêu cầu pháp lý và cơ bản nêu trên, quy chuẩn kĩ thuật môi trường phải được xây dựng và áp dụng trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:

  • Mục tiêu bảo vệ môi trường, phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường là một mục tiêu hàng đầu của việc xây dựng và áp dụng quy chuẩn kĩ thuật môi trường. Đặc biệt, mục tiêu bảo vệ chất lượng cuộc sống của con người là trọng tâm, và quy chuẩn kĩ thuật môi trường phải tập trung đảm bảo an toàn ở mức cao nhất đối với sức khoẻ con người và hệ sinh vật. Việc xây dựng quy chuẩn này cần dựa trên căn cứ khoa học - pháp lí vững chắc, đặc biệt là tập trung nghiên cứu ảnh hưởng đến sức khoẻ con người từ tác động của môi trường sống.
  • Phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường là một nguyên tắc quan trọng trong xây dựng quy chuẩn kĩ thuật môi trường. Điều này đòi hỏi hệ thống quy chuẩn kĩ thuật môi trường phải được xây dựng dựa trên tính toán và cân đối giữa khả năng "chịu đựng" của môi trường và các tác động từ hoạt động con người cũng như những biến đổi tự nhiên bất thường. Từ đó, xác định các giới hạn an toàn đối với môi trường, đồng thời đảm bảo sự an toàn và chất lượng cuộc sống của con người.
  • Việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường cần có tính kịp thời, khả thi và phù hợp với mức độ phát triển kinh tế-xã hội, trình độ công nghệ của đất nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này là cực kỳ quan trọng vì quy chuẩn kĩ thuật môi trường đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm. Thiếu quy chuẩn kĩ thuật môi trường sẽ làm trở ngại cho công tác quản lý và bảo vệ môi trường, vì không có cơ sở khoa học - pháp lý để xác định chất lượng thực tế của môi trường và kiểm soát các tác động tiêu cực đến môi trường.
  • Phù hợp với đặc điểm của khu vực, vùng và ngành sản xuất là nguyên tắc quan trọng giúp xây dựng quy chuẩn kĩ thuật môi trường đáp ứng yêu cầu đặc thù. Ví dụ, yêu cầu về chất lượng môi trường không khí có thể khác nhau giữa các khu vực sản xuất và các khu vực chữa bệnh, giữa khu vực thương mại và dịch vụ với khu vực có thư viện và trường học. Nhu cầu xây dựng quy chuẩn kỹ thuật môi trường cụ thể phải tính tới các đặc điểm không gian, thời gian, mục đích sử dụng và tác động đến các yếu tố môi trường.
  • Quy chuẩn kĩ thuật môi trường địa phương cần nghiêm ngặt hơn so với quốc gia hoặc đáp ứng yêu cầu quản lí môi trường có tính đặc thù. Với việc đặt con người làm trung tâm và đáp ứng các yêu cầu về đặc thù địa phương, việc xây dựng và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật môi trường địa phương phải nghiêm ngặt hơn, đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Để đảm bảo tính khoa học của quy chuẩn kĩ thuật môi trường, việc xây dựng và ban hành quy chuẩn này cần dựa trên các căn cứ quan trọng như sự tác động của môi trường đến sức khoẻ và cảm quan của con người. Con người là mục tiêu hàng đầu trong bảo vệ môi trường, và bất kể thay đổi nhỏ nào của môi trường cũng có thể gây hại đến sức khoẻ và tính mạng của con người. Sức khoẻ con người là tiêu chí quan trọng để đo lường mức độ ô nhiễm môi trường và phản ánh chất lượng môi trường. Những yêu cầu của quy chuẩn môi trường phải được thiết lập để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người trong môi trường lành mạnh và an toàn.

Hệ thống quy chuẩn kĩ thuật môi trường của hầu hết các quốc gia trên thế giới thường được xây dựng dựa trên cơ sở mức tác động thứ 2 và thứ 3 trong biểu đồ nêu trên. Cơ sở này căn cứ vào tác động của môi trường đối với hệ sinh thái và vật liệu.

Quy chuẩn kĩ thuật môi trường có nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe con người cũng như duy trì cân bằng trong các hệ sinh thái và ngăn chặn tác động tiêu cực đối với các yếu tố vật chất trong công nghiệp và sinh hoạt. Mặc dù những biến đổi môi trường có thể không ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, chúng vẫn có thể gây tác động đối với các hệ động, thực vật, hoặc các vật liệu công nghiệp và xây dựng. Vì vậy, các yếu tố này cũng được xem xét và tính đến khi xây dựng quy chuẩn kĩ thuật môi trường.

Trong quá trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn kĩ thuật môi trường, các yếu tố chủ quan và khách quan khác cũng được xem xét. Điều này bao gồm yếu tố nền môi trường (tức chất lượng tự nhiên của môi trường), sức chịu tải của môi trường (giới hạn cho phép mà môi trường có thể tiếp nhận và xử lý các chất gây ô nhiễm), chi phí thực hiện quy chuẩn kĩ thuật môi trường, mức chính xác của các thiết bị đo lường, mức đồng nhất trong việc thu thập và xử lý thông tin, và ý thức xã hội của dân chúng.

Hệ thống quy chuẩn kĩ thuật môi trường được chia thành ba loại dựa trên tính chất và mục đích ban hành. Đó là quy chuẩn kĩ thuật về chất lượng môi trường xung quanh, quy chuẩn kĩ thuật về chất thải và các quy chuẩn môi trường khác.

Quy chuẩn kĩ thuật về chất lượng môi trường xung quanh quy định giá trị giới hạn cho phép của các thông số môi trường phù hợp với mục đích sử dụng và thành phần môi trường. Điều này bao gồm giá trị tối thiểu của các thông số môi trường để đảm bảo sự sống và phát triển bình thường của con người và sinh vật, cũng như giá trị tối đa cho phép của các thông số môi trường có hại để không gây ảnh hưởng xấu đến sự sống và phát triển bình thường của con người và sinh vật. Quy chuẩn này cũng chỉ dẫn phương pháp đo đạc, lấy mẫu và phân tích để xác định thông số môi trường.

Quy chuẩn kĩ thuật về chất thải quy định cụ thể hàm lượng tối đa của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường. Hàm lượng chất gây ô nhiễm này phụ thuộc vào tính chất độc hại, khối lượng chất thải phát sinh và sức chịu tải của môi trường tiếp nhận chất thải.

Ngoài ra, tiêu chuẩn môi trường cũng được quy định cụ thể trong phạm vi quản lý của tổ chức và được áp dụng theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kĩ thuật. Các bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm xây dựng và công bố các tiêu chuẩn quốc gia về môi trường, và các cơ quan khác thực hiện việc xây dựng và công bố các tiêu chuẩn cơ sở về môi trường.

 

2.4 Quản lý chất thải 

Chất thải, theo định nghĩa chung, được xác định là vật chất bị loại bỏ từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác (theo khoản 15, Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Đối với mục tiêu kiểm soát ô nhiễm môi trường, việc quản lý chất thải đóng vai trò quan trọng bởi chất thải là nguồn chính gây ô nhiễm. Chúng ta có thể phân biệt chất thải dựa trên tính chất của nó, như chất thải lỏng, chất thải khí, chất thải rắn, chất thải ở dạng mùi, chất thải phóng xạ và các hỗn hợp khác. Hoặc có thể phân loại chất thải dựa trên nguồn phát sinh, như chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế. Ngoài ra, còn có thể phân loại chất thải dựa trên mức độ tác động tới môi trường, chia thành chất thải thông thường và chất thải nguy hại, trong đó chất thải nguy hại chứa các yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có các đặc tính nguy hại khác (theo khoản 1, Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Pháp luật môi trường nghiêm cấm một số hành vi xả thải các loại chất thải sau đây (theo Điều 7 Luật bảo vệ môi trường năm 2014):

  • Chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không tuân thủ quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường.
  • Thải chất thải chưa qua xử lí đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; thải các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và khí khói.
  • Thải khói, bụi, khí chứa chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hoá vượt quá quy chuẩn môi trường.
  • Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
  • Nhập khẩu, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức.

Quản lý chất thải là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế chất thải và xử lý chất thải. Trên thế giới, có hai phương pháp tiếp cận phổ biến được áp dụng trong quản lý chất thải: quản lý chất thải ở cuối đường ống sản xuất (hay còn gọi là quản lý chất thải ở cuối công đoạn sản xuất) và quản lý chất thải theo đường ống sản xuất (quản lý chất thải trong suốt quá trình sản xuất, dọc theo đường ống sản xuất). Ngoài ra, một số nước phát triển đã áp dụng phương pháp tiếp cận mới trong quản lý chất thải, tập trung vào khâu tiêu dùng. Cách tiếp cận này tập trung vào việc nâng cao nhận thức của người tiêu dùng (bao gồm cả các nhà sản xuất) để họ lựa chọn và yêu cầu các sản phẩm phải đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường, thân thiện với môi trường và thực hiện hành động thân thiện với môi trường trong việc sử dụng sản phẩm.

Năm 2014, Luật bảo vệ môi trường đã có quy định toàn diện về quản lý chất thải, theo đó "chất thải phải được quản lý trong toàn bộ quá trình phát sinh, giảm thiểu, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và tiêu huỷ"; "Chất thải thông thường có lẫn chất thải nguy hại vượt ngưỡng quy định mà không thể phân loại được thì phải quản lý theo quy định của pháp luật về chất thải nguy hại" (theo Điều 85).

Chất thải có khả năng tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng cần được phân loại. Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải chịu trách nhiệm giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải hoặc chuyển giao cho cơ sở có chức năng phù hợp để tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng (theo Điều 86 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ chịu trách nhiệm thu hồi và xử lí sản phẩm thải. Người tiêu dùng có trách nhiệm đưa sản phẩm thải đến nơi quy định.

Ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đảm bảo điều kiện thuận lợi để cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thực hiện việc thu gom sản phẩm thải. Đối với từng loại chất thải, pháp luật quy định về quản lý chất thải dựa trên tác động của chúng đối với môi trường xung quanh. Cụ thể như sau:

  • Quản lý chất thải thông thường: Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân phải phân loại chất thải rắn thông thường tại nguồn để thuận lợi cho việc tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lí. Chất thải rắn thông thường phải được thu gom, lưu giữ và vận chuyển bằng phương tiện, thiết bị chuyên dụng đến nơi quy định. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm tổ chức việc này trên địa bàn quản lí.
  • Tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý chất thải rắn thông thường phải tuân thủ các yêu cầu quy định. Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phải tự tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lí chất thải rắn thông thường khi có khả năng. Trường hợp không thực hiện được, họ phải chuyển giao cho cơ sở có chức năng phù hợp để xử lí.
  • Quản lý nước thải: Nước thải phải được thu gom, xử lí sao cho đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Nếu nước thải có yếu tố nguy hại vượt quá ngưỡng quy định, phải tuân thủ quy định về chất thải nguy hại. Đô thị, khu dân cư tập trung phải có hệ thống thu gom riêng cho nước mưa và nước thải. Nước thải từ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải được thu gom, xử lí sao cho đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải được quản lý theo quy định về chất thải rắn. Bùn thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định của pháp luật về chất thải nguy hại.

Pháp luật môi trường Việt Nam đặt ra những quy định cụ thể và rõ ràng để quản lí các loại chất thải, nhằm bảo vệ môi trường và duy trì cân bằng sinh thái. Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và người tiêu dùng phải chịu trách nhiệm thực hiện đúng các quy định này, đảm bảo tính pháp lý và bảo vệ môi trường cho cộng đồng và cuộc sống bền vững.

Pháp luật hiện tại quy định một số đối tượng nhất thiết phải có hệ thống xử lý nước thải, bao gồm: khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung; khu, cụm công nghiệp làng nghề; cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không liên thông với hệ thống xử lý nước thải tập trung (theo Điều 101 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Hệ thống xử lý nước thải cần đáp ứng các yêu cầu như có quy trình công nghệ phù hợp với loại hình nước thải cần xử lí; đủ công suất xử lý nước thải phù hợp với khối lượng nước thải phát sinh; xử lý nước thải đạt quy chuẩn kĩ thuật môi trường; cửa xả nước thải vào hệ thống tiêu thoát phải đặt ở vị trí thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát; phải được vận hành thường xuyên.

Chủ quản lý hệ thống xử lý nước thải phải thực hiện quan trắc định kì nước thải trước và sau khi xử lí, và số liệu quan trắc được lưu giữ làm căn cứ để kiểm tra, giám sát hoạt động của hệ thống xử lý nước thải.

Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy mô xả thải lớn và có nguy cơ tác hại đến môi trường cần tổ chức quan trắc môi trường nước thải tự động và chuyển số liệu cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Bộ tài nguyên và môi trường.

Pháp luật cũng quy định việc quản lí và kiểm soát bụi, khí thải, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ (theo Điều 102 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát tán bụi, khí thải phải kiểm soát và xử lí bụi, khí thải để bảo đảm quy chuẩn kĩ thuật môi trường. Phương tiện giao thông, máy móc, thiết bị, công trình xây dựng phát tán bụi, khí thải phải được trang bị bộ phận lọc, giảm thiểu khí thải hoặc thiết bị che chắn hoặc áp dụng các biện pháp khác để giảm thiểu bụi, bảo đảm quy chuẩn kĩ thuật môi trường. Các loại bụi, khí thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định của pháp luật về quản lí chất thải nguy hại.

Luật bảo vệ môi trường cũng đưa ra quy định về quản lí và kiểm soát tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ (theo Điều 103 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Tổ chức, cá nhân gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải kiểm soát và xử lí để bảo đảm quy chuẩn kĩ thuật môi trường. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu dân cư gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải thực hiện biện pháp giảm thiểu không làm ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư. Tuyến đường có mật độ phương tiện giao thông cao gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải có biện pháp giảm thiểu, đáp ứng quy chuẩn kĩ thuật môi trường. Việc sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, kinh doanh và sử dụng pháo nổ phải tuân thủ quy định của Thủ tướng Chính phủ.

Ngoài việc quy định trách nhiệm của chủ phát sinh chất thải, pháp luật cũng đưa ra quy định về trách nhiệm của uỷ ban nhân dân các cấp trong quản lí chất thải (theo Điều 88 Luật bảo vệ môi trường năm 2014); trách nhiệm của chủ đầu tư khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao trong quản lý chất thải (theo Điều 89 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Đối với việc quản lý chất thải nguy hại, pháp luật đề ra các quy định chi tiết về điều kiện, yêu cầu bảo vệ môi trường trong từng công đoạn của quá trình quản lý chất thải nguy hại (theo Điều 90 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Chủ nguồn thải chất thải nguy hại phải lập hồ sơ về chất thải nguy hại và đăng kí với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp tỉnh. Tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện và có giấy phép mới được xử lý chất thải nguy hại.

Việc phân loại, thu gom, lưu giữ trước khi xử lý chất thải nguy hại phải được tiến hành đúng quy trình (theo Điều 91 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Chất thải nguy hại phải được lưu giữ trong phương tiện, thiết bị chuyên dụng để không tác động xấu đến con người và môi trường. Việc vận chuyển chất thải nguy hại phải bằng thiết bị, phương tiện, thiết bị chuyên dụng phù hợp và được ghi trong giấy phép xử lí chất thải nguy hại. Chất thải nguy hại được vận chuyển sang nước khác phải tuân thủ các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (khoản 2 Điều 92 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Việc xử lý chất thải nguy hại cần sử dụng phương pháp, công nghệ, thiết bị phù hợp để đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường (theo Điều 93 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Cơ sở xử lí chất thải nguy hại phải đáp ứng một số điều kiện như địa điểm thuộc quy hoạch do cấp có thẩm quyền phê duyệt; có khoảng cách bảo đảm không ảnh hưởng xấu đối với môi trường và con người; có công nghệ, phương tiện, thiết bị chuyên dụng đạt quy chuẩn kĩ thuật môi trường; có công trình, biện pháp bảo vệ môi trường; có nhân sự quản lí có cấp chứng chỉ và nhân sự kĩ thuật có trình độ chuyên môn phù hợp; có quy trình vận hành an toàn công nghệ, phương tiện, thiết bị chuyên dụng, có phương án bảo vệ môi trường; có kế hoạch phục hồi môi trường sau khi chấm dứt hoạt động, có báo cáo đánh giá tác động môi trường được Bộ tài nguyên và môi trường thẩm định và phê duyệt.

Để thực hiện các quy định này, pháp luật đã đề ra các biện pháp quản lý và kiểm soát chất thải, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ để đảm bảo tính pháp lý và giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và sức khỏe con người.

 

2.5 Xử lí cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng 

Xử lí cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được coi là một trong các biện pháp pháp lí để kiểm soát ô nhiễm. Quá trình xử lí này nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường từ các cơ sở và đồng thời ngăn chặn sự xuất hiện của những đối tượng gây ô nhiễm môi trường khác.

Cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng là những cơ sở có hoạt động thải nước thải, khí thải, bụi, chất thải rắn, tiếng ồn, độ rung và các chất gây ô nhiễm khác vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường ở mức độ nghiêm trọng. Pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam quy định chính xác điều này trong khoản 1, Điều 104 năm 2014.

Cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật và được đưa vào danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, kèm theo các biện pháp xử lí ô nhiễm môi trường. Điều này được ghi rõ trong khoản 2, Điều 104 Luật bảo vệ môi trường năm 2014.

Quy trình rà soát và phát hiện cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được thực hiện hàng năm và theo trình tự sau: Trước hết, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ lập danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi trường trên địa bàn, trừ trường hợp có quy định khác tại điểm b, khoản 3 Điều 104 năm 2014. Sau đó, danh sách và biện pháp xử lí cơ sở gây ô nhiễm môi trường được gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường để tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để lập danh sách và biện pháp xử lí, sau đó gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường để tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Cuối cùng, quyết định xử lí đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải được thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã nơi cơ sở hoạt động, và công khai cho cộng đồng dân cư biết để kiểm tra, giám sát. (khoản 3, Điều 104 năm 2014).

Trách nhiệm tổ chức xử lí cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được quy định như sau: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức xử lí cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bàn. Trong trường hợp cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để xử lí. Các cơ quan và tổ chức khác có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để xử lí cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc thẩm quyền quản lí. Hàng năm, các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ cùng với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đánh giá kết quả triển khai xử lí cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và báo cáo tổng hợp tới Bộ Tài nguyên và Môi trường, sau đó báo cáo Thủ tướng Chính phủ. (khoản 4, Điều 104 năm 2014)

 

2.6 Khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường, phòng ngừa, ứng phó, khắc phục và xử lí sự cố môi trường 

Khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường là một trong những biện pháp pháp lí quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường, nhằm ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu do ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường gây ra, đồng thời tìm kiếm các giải pháp khôi phục lại tình trạng môi trường như trước khi bị ô nhiễm.

Khắc phục ô nhiễm môi trường là hoạt động giảm thiểu tác động của ô nhiễm đến môi trường và con người, đồng thời nâng cao chất lượng môi trường tại khu vực bị ô nhiễm. Điều này được quy định rõ trong khoản 1 Điều 105 của Luật bảo vệ môi trường năm 2014.

Trách nhiệm trong khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường trước hết thuộc về các tổ chức và cá nhân. Các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm xây dựng phương án cải tạo và phục hồi môi trường khi tiến hành các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Họ cũng phải thực hiện biện pháp khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường khi gây ô nhiễm. Trong trường hợp nhiều tổ chức và cá nhân cùng gây ô nhiễm môi trường mà không tự thỏa thuận được về trách nhiệm, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường phối hợp với các bên liên quan để làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường (khoản 1 Điều 107 Luật bảo vệ môi trường năm 2014). Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức điều tra và xác định khu vực môi trường bị ô nhiễm trên địa bàn và hàng năm báo cáo Bộ tài nguyên và môi trường (khoản 2 Điều 107 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm quy định tiêu chí phân loại khu vực ô nhiễm môi trường, hướng dẫn thực hiện hoạt động cải tạo và phục hồi môi trường. Bộ cũng kiểm tra, xác nhận hoàn thành khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, điều tra, đánh giá và tổ chức thực hiện các hoạt động này đối với các khu vực bị ô nhiễm liên tỉnh. Trong trường hợp môi trường bị ô nhiễm do thiên tai gây ra hoặc chưa xác định được nguyên nhân, các bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm huy động nguồn lực để tổ chức khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường (khoản 3 Điều 107 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Để khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường một cách nhanh chóng, kịp thời và đạt kết quả, một trong những yêu cầu được đặt ra đầu tiên là phải tiến hành xác định khu vực môi trường bị ô nhiễm một cách cụ thể. Điều này bao gồm việc xác định phạm vi, giới hạn của khu vực bị ô nhiễm, đánh giá mức độ ô nhiễm và rủi ro, xác định nguyên nhân và trách nhiệm của các bên liên quan. Ngoài ra, cần đề xuất các giải pháp xử lý ô nhiễm, phục hồi môi trường và xác định thiệt hại đối với môi trường để có căn cứ yêu cầu các bên gây ô nhiễm phải bồi thường (khoản 1 Điều 106 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Cũng theo Luật bảo vệ môi trường năm 2014, khu vực môi trường bị ô nhiễm được phân loại thành ba mức độ: ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 105).

Các dự án khai thác mỏ, khoáng sản cần phải có phương án cải tạo và phục hồi môi trường được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước khi hoạt động và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường. Phương án này bao gồm xác định khả năng, phạm vi và mức độ gây ô nhiễm môi trường, đánh giá rủi ro và lựa chọn phương án khả thi cải tạo và phục hồi môi trường, cũng như kế hoạch và kinh phí thực hiện cải tạo, phục hồi môi trường sau khi kết thúc dự án (khoản 2 Điều 106 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Ngoài việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 cũng quy định rõ về trách nhiệm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục và xử lý sự cố môi trường. Trách nhiệm phòng ngừa sự cố môi trường đầu tiên thuộc về chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và phương tiện vận tải có nguy cơ gây ra sự cố môi trường. Họ phải lập kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường, lắp đặt thiết bị và dụng cụ ứng phó, đào tạo và huấn luyện lực lượng tại chỗ ứng phó, thực hiện kiểm tra thường xuyên và áp dụng biện pháp an toàn theo quy định pháp luật. Ngoài ra, họ cũng phải có biện pháp loại trừ nguyên nhân gây ra sự cố môi trường khi phát hiện có dấu hiệu sự cố môi trường. Bên cạnh đó, các bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng có trách nhiệm đánh giá nguy cơ các loại sự cố môi trường và xây dựng kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường (khoản 1 Điều 108 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Ứng phó sự cố môi trường là trách nhiệm của tổ chức và cá nhân gây ra sự cố. Họ phải thực hiện các biện pháp khẩn cấp để bảo đảm an toàn cho người và tài sản, tổ chức cứu người, tài sản và kịp thời thông báo cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường nơi xảy ra sự cố. Trong trường hợp sự cố môi trường xảy ra ở một cơ sở hoặc địa phương, người đứng đầu cơ sở hoặc địa phương đó có trách nhiệm huy động khẩn cấp nhân lực, vật lực và phương tiện để kịp thời ứng phó. Nếu sự cố xảy ra ở nhiều cơ sở hoặc địa phương, người đứng đầu nơi có sự cố phải phối hợp ứng phó. Trong trường hợp vượt quá khả năng ứng phó của cơ sở hoặc địa phương, người đứng đầu phải báo cáo cơ quan cấp trên để kịp thời huy động các cơ sở và địa phương khác tham gia ứng phó. Các cơ sở và địa phương được yêu cầu huy động phải thực hiện biện pháp ứng phó trong phạm vi khả năng của mình. Việc ứng phó sự cố môi trường đặc biệt nghiêm trọng sẽ tuân theo quy định về tình trạng khẩn cấp và nhân lực, vật tư, phương tiện sử dụng để ứng phó sự cố sẽ được bồi hoàn và thanh toán chi phí theo quy định pháp luật. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường gây ra cũng được thực hiện theo quy định Luật này và các quy định liên quan (khoản 3 Điều 108 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Ngoài việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 còn quy định rõ về trách nhiệm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục và xử lý sự cố môi trường. Trách nhiệm phòng ngừa sự cố môi trường đầu tiên thuộc về chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và phương tiện vận tải có nguy cơ gây ra sự cố môi trường. Họ phải lập kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường, lắp đặt thiết bị và dụng cụ ứng phó, đào tạo và huấn luyện lực lượng tại chỗ ứng phó, thực hiện kiểm tra thường xuyên và áp dụng biện pháp an toàn theo quy định pháp luật. Ngoài ra, họ cũng phải có biện pháp loại trừ nguyên nhân gây ra sự cố môi trường khi phát hiện có dấu hiệu sự cố môi trường. Bên cạnh đó, các bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng có trách nhiệm đánh giá nguy cơ các loại sự cố môi trường và xây dựng kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường (khoản 1 Điều 108 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Ứng phó sự cố môi trường là trách nhiệm của tổ chức và cá nhân gây ra sự cố. Họ phải thực hiện các biện pháp khẩn cấp để bảo đảm an toàn cho người và tài sản, tổ chức cứu người, tài sản và kịp thời thông báo cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường nơi xảy ra sự cố. Trong trường hợp sự cố môi trường xảy ra ở một cơ sở hoặc địa phương, người đứng đầu cơ sở hoặc địa phương đó có trách nhiệm huy động khẩn cấp nhân lực, vật lực và phương tiện để kịp thời ứng phó. Nếu sự cố xảy ra ở nhiều cơ sở hoặc địa phương, người đứng đầu nơi có sự cố phải phối hợp ứng phó. Trong trường hợp vượt quá khả năng ứng phó của cơ sở hoặc địa phương, người đứng đầu phải báo cáo cơ quan cấp trên để kịp thời huy động các cơ sở và địa phương khác tham gia ứng phó. Các cơ sở và địa phương được yêu cầu huy động phải thực hiện biện pháp ứng phó trong phạm vi khả năng của mình. Việc ứng phó sự cố môi trường đặc biệt nghiêm trọng sẽ tuân theo quy định về tình trạng khẩn cấp và nhân lực, vật tư, phương tiện sử dụng để ứng phó sự cố sẽ được bồi hoàn và thanh toán chi phí theo quy định pháp luật. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường gây ra cũng được thực hiện theo quy định Luật này và các quy định liên quan (khoản 3 Điều 108 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).

Tóm lại, việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường đòi hỏi sự tham gia và trách nhiệm của nhiều bên, bao gồm các tổ chức, cá nhân, cơ quan nhà nước và cộng đồng. Quy định trong Luật bảo vệ môi trường năm 2014 đã đề ra các yêu cầu và trách nhiệm cụ thể trong việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường, cũng như phòng ngừa, ứng phó và xử lý sự cố môi trường. Để thực hiện tốt các biện pháp này, cần có sự hợp tác và đồng lòng của tất cả các bên liên quan để bảo vệ môi trường và đảm bảo sự bền vững cho tương lai.

>> Xem thêm: Dầu khí là gì ? Hoạt động dầu khí là gì ? Kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động dầu khí