1. Khái niệm xây dựng pháp luật.

Pháp luật là một trong những công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước để quản lý xã hội. Ngày nay, pháp luật ngày càng được thượng tôn và phổ biến đến đa số người dân thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau. Đây là kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật – hoạt động phức tạp với trình tự, thủ tục luật định nghiêm ngặt. Pháp luật thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình bằng việc đặt ra các quy phạm ghi nhận cách xử sự của con người khi ở trong trường hợp nhất định, tạo khung pháp lý cho người dân, định hướng sự phát triển của hành vi con người.

Xây dựng pháp luật là hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền, tiến hành trong thời gian dài, có tính phức tạp cao và tuân theo thủ tục được quy định trong pháp luật. 

Tóm lại, xây dựng pháp luật là một phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước thông qua các chủ thể được trao quyền, nhằm tạo ra công cụ, phương tiện hữu hiệu phục vụ công tác quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Hay nói đơn giản, đây là hoạt động soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật chứa các quy phạm, bao gồm các khâu nghiên cứu, soạn thảo và công bố văn bản.

Sở dĩ nói đây là một hoạt động phức tạp bởi hoạt động này diễn ra cần một khoảng thời gian dài, cần có sự tham gia của nhiều chủ thể, đặc biệt là nhóm chủ thể có trình độ chuyên môn cao, đồng thời hoạt động này cũng đòi hỏi có sự phát huy trí tuệ tập thể, chạy đua với sự vận động, phát triển không ngừng của thế giới tự nhiên.

2. Bản chất xã hội của xây dựng pháp luật

Trước hết, xây dựng pháp luật (XDPL) chính là một loại thiết kế xã hội, bao gồm việc dựng cho xã hội một "bản vẽ", một bộ khung, mô hình, góp phần vào việc định hình, định hướng xã hội theo một hệ thống các quy ước nhất định. Hoạt động XDPL thực chất là tạo nên các quy phạm pháp luật (QPPL) - quy tắc của hành vi - để tác động vào các quan hệ xã hội, làm chúng đi theo đúng khuôn khổ mà xã hội mong muốn. Các khuôn khổ đó sẽ cung cấp quy tắc ứng xử, mô hình hóa hành vi của các thành viên trong xã hội, kiềm chế họ không thực hiện hoặc bắt buộc phải thực hiện những hành vi nhất định, hoặc sẽ hành xử như thế này mà không phải như thế khác. XDPL tạo ra các khung khổ để thay đổi các hành vi có xu hướng cản trở sự phát triển (đặc biệt là hành vi của các công chức nhà nước) và ngược lại.

XDPL xuất phát từ nhu cầu của xã hội, trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhu cầu điều chỉnh này, cùng các quyền, lợi ích, phần lớn trùng hợp với mong muốn của các cá nhân, các nhóm trong xã hội. Hoạt động XDPL không những nằm trong quá trình vận hành chung của xã hội, mà với các QPPL được xây dựng chủ động, mang tính "đón đầu", "phòng ngừa" xã hội trong quá trình điều chỉnh, còn thể hiện sự định hướng xã hội.

XDPL được vận hành nhờ các chất liệu đa dạng từ cuộc sống, chịu sự tác động nhiều chiều từ các khía cạnh, yếu tố khác nhau trong xã hội. Từ các yếu tố chung như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bối cảnh quốc tế, ý thức pháp luật, truyền thống lịch sử cho đến các yếu tố trực tiếp như: tổ chức, năng lực, kỹ năng, kỹ thuật soạn thảo, phạm vi, tính chất, đối tượng điều chỉnh...

XDPL, đến lượt mình, cũng tác động trở lại mạnh mẽ đến các khía cạnh xã hội. Nó không chỉ là hoạt động chủ đạo góp phần tạo nên cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh, định hướng các quan hệ xã hội, mà còn là một hệ thống các thông tin xã hội tương ứng được thể hiện qua nội dung, cách thức điều chỉnh của các QPPL. XDPL góp phần quy phạm hóa các chuẩn mực xã hội khác như: đạo đức, phong tục, tập quán, các quy tắc của tổ chức chính trị, xã hội, làm đa dạng cách thức và gia tăng hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội.

3. Cơ chế xã hội trong xây dựng pháp luật

Khác với cơ chế pháp lý trong XDPL, luôn mang tính quyền lực nhà nước với các quy trình luật định, cơ chế xã hội trong XDPL có đặc thù riêng, là quá trình gắn với sự tham gia của các lực lượng xã hội, gồm công dân, nhóm, tổ chức, hội nghề nghiệp, các thành phần khác nhau của xã hội dân sự vào việc XDPL của Nhà nước.

Cơ chế xã hội trong XDPL có thể xuất hiện ở giai đoạn này hay giai đoạn khác, hoặc lặp đi lặp lại trong các giai đoạn của quá trình XDPL. Các hình thức của cơ chế đó là: nhận biết, phản ánh, thiết lập; tham gia; phản kháng, phản biện xã hội và giám sát xã hội trong XDPL.

Nhận biết, phản ánh, thường xuất hiện ở giai đoạn đầu của quá trình XDPL. Từ thực tiễn, các thành phần xã hội nhận thức, đánh giá về trạng thái, tính chất, hiệu quả của các quy phạm pháp luật hiện hành trong khi điều chỉnh quan hệ xã hội. Những bất cập, thiếu khuyết của pháp luật sẽ được nhận diện. Bất cập có thể đến từ sự mâu thuẫn về lợi ích, mức độ thiếu tương thích trong đáp ứng nhu cầu xã hội, sự yếu kém về kỹ thuật lập pháp, sự biến động của các quan hệ xã hội hoặc đến từ những tình huống xã hội thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước. Những tình huống xã hội xuất hiện lặp đi lặp lại, nhất là tình huống mang yếu tố không bình thường, không chỉ giúp cho việc nhận diện vấn đề mà còn cho thấy các lỗ hổng của pháp luật hiện hành, kéo theo nhu cầu phải sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan. Ví dụ, việc gia tăng các giao dịch về cây hoa phong lan đột biến với giá hàng chục, hàng trăm tỷ đồng đã thu hút không ít người lao vào đầu tư với mong muốn kiếm siêu lợi nhuận vì tin rằng sẽ có người bỏ tiền nhiều hơn để mua lại. Các hành vi lừa đảo theo đó cũng gia tăng, dẫn đến nhiều nghi vấn về tính xác thực của giao dịch. Ở góc độ pháp lý, nhiều ý kiến cho rằng, để những tình huống xã hội dạng này ngày càng xuất hiện là do những bất cập về pháp luật. Cụ thể, trong trường hợp nếu hộ gia đình, cá nhân trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng trọt) chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác, thì sản phẩm nông nghiệp trong trường hợp này không chịu thuế giá trị gia tăng theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2016 và được miễn thuế thu nhập cá nhân theo quy định tại Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007. Theo đó, việc cân nhắc, bổ sung các quy định về thuế và cơ chế kiểm soát đối với loại tình huống pháp lý này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc minh định các giao dịch, giúp người dân không bị cuốn vào những giao dịch tiềm ẩn đầy rủi ro, bất ổn có thể làm đảo lộn cuộc sống và mất trật tự an ninh.

Gắn liền với nhận thức, hoạt động phản ánh sẽ diễn ra, nhằm tái hiện các vấn đề xã hội - pháp lý liên quan đến các đặc trưng, hệ quả xã hội hoặc tính chất của các QPPL, nhằm đạt được những nhu cầu từ thực tiễn. Một biểu hiện phổ biến trong cơ chế nhận thức, phản ánh là dư luận xã hội. Dư luận xã hội là các ý kiến còn lại sau quá trình phân tích, đánh giá của các thành phần xã hội về những vấn đề mà họ cảm thấy có ý nghĩa hoặc động chạm đến lợi ích, giá trị chung. Thông qua dư luận xã hội, quá trình nhận biết, phản ánh trong XDPL của các thành phần xã hội được công khai, cập nhật.

Sự tham gia trong XDPL là quá trình người dân, các lực lượng xã hội có thể góp phần hoạt động của mình vào xây dựng các quyết định, chính sách pháp luật có ảnh hưởng đến hành vi, các quyền và lợi ích của họ. Sự tham gia của xã hội vào XDPL thông thường đến từ các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp từ các văn bản QPPL, các đối tượng khác chịu sự tác động của các dự thảo văn bản QPPL, của các tổ chức xã hội, chuyên gia, hoặc từ các chủ thể khác trong tương quan với nhận thức, mức độ quan tâm của họ đến XDPL. Các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản QPPL thuộc nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, cơ chế tham gia có những đặc thù, ảnh hưởng từ yếu tố thể chất, tinh thần của nhóm. Sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học có ý nghĩa quan trọng, bởi họ thường có tri thức, kỹ năng, gia tăng cơ hội xây dựng được các VBQPPL có chất lượng, hiệu quả. Sự tham gia của các đối tượng có lợi ích liên quan có thể làm cho họ hành xử khác đi. Đặc biệt, khi sự tham gia không phải với tư cách là các đối tượng nghiên cứu thụ động, mà với tư cách là các chủ thể tích cực, chủ động vào các chương trình phân tích được tiến hành "sẽ thúc đẩy một chương trình lập pháp ngày càng dân chủ". 

Ở Việt Nam, sự tham gia của xã hội vào XDPL được ghi nhận tại Điều 28 Hiến pháp năm 2013, cụ thể hóa tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 "bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL". Cơ chế tham gia của xã hội vào XDPL không chỉ đảm bảo quyền của công dân, nhằm thu hút, phát huy năng lực sáng tạo của nhân dân mà còn gia tăng trách nhiệm của Nhà nước trong quá trình tạo ra các sản phẩm pháp luật đáp ứng nhu cầu xã hội, phục vụ con người.

Phản biện, phản kháng xã hội: Phản biện xã hội trong XDPL là việc bày tỏ ý kiến một cách có hệ thống và có cơ sở khoa học đối với các chính sách, pháp luật ở những công đoạn nhất định của quá trình XDPL, là "nhận diện, tìm ra điểm đúng, sai, bất hợp lý của chính sách được đưa ra để giải quyết vấn đề phát sinh, từ đó có thể kiến nghị điều chỉnh hay thậm chí là hủy bỏ chính sách đó, đề xuất chính sách mới, phù hợp hơn để giải quyết vấn đề". Nhờ cơ chế phản biện, mức độ tương thích, hiệu quả của chính sách pháp luật sẽ được nhận diện, những lập luận, đề xuất đưa ra sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách pháp luật khi được ban hành. Phản biện có thể diễn ra trực tiếp tại các hội nghị lấy ý kiến, tiếp xúc cử tri của đại biểu dân cử hoặc thông qua việc đăng tải ý kiến trên phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các tổ chức mà mình là thành viên hoặc qua việc đối thoại với các chủ thể có văn bản được phản biện.

Phản kháng xã hội trong XDPL có mục đích loại bỏ hoặc kiềm chế việc xây dựng hoặc ban hành những chính sách, pháp luật mà các chủ thể phản kháng thấy không hợp lý, không có ích cho xã hội, cộng đồng. Phản kháng và phản biện xã hội trong XDPL không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều là những cách thức thể hiện thái độ, phản ứng tích cực của xã hội đối với các vấn đề liên quan đến XDPL, nhằm hướng tới chất lượng, hiệu quả của các sản phẩm lập pháp, lập quy.

Giám sát xã hội trong XDPL là việc công dân, các thành phần xã hội, thông qua các cách thức được pháp luật quy định, tiến hành quan sát, theo dõi, kiểm tra hoạt động XDPL của các chủ thể có thẩm quyền xem có đúng đắn, hợp pháp, hợp lý, chất lượng, hiệu quả không. Cách thức giám sát có thể qua khiếu nại, tố cáo, qua báo chí, phương tiện truyền thông đại chúng hoặc qua việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trong liên quan đến quá trình XDPL.  

Các hình thức của cơ chế xã hội của XDPL có quan hệ mật thiết, tiếp nối, hòa trộn trong quá trình XDPL. Để giám sát, cần nhận biết, phản ánh và ngược lại. Giám sát cung cấp dữ liệu sống động cho quá trình phản kháng, phản biện xã hội, nhằm hướng tới chất lượng, hiệu lực thực sự của pháp luật. Ở góc độ tích cực nhất, các cơ chế xã hội của XDPL là biểu hiện mạnh mẽ sự tham gia đa dạng, chủ động của nhân dân vào hoạt động XDPL, cũng là sự cạnh tranh cần thiết trong tương quan với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của cơ chế pháp lý của XDPL.

4. Dư luận xã hội ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động XDPL

Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự có liên quan đến lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ. Trong bất kỳ xã hội nào dư luận xã hội cũng đều có ảnh hưởng nhất định và trong nhiều trường hợp còn có tác dụng mạnh mẽ đến quá trình chính trị xã hội, đến việc lãnh đạo và quản lý xã hội. Trong lịch sử xã hội loài người dư luận xã hội đóng vai trò là yếu tố điều hòa các mối quan hệ xã hội và điều chỉnh hành vi của con người. Trong xã hội nguyên thủy mặc dù dư luận xã hội chỉ tồn tại những tư cách ý kiến quan điểm thái độ sự phán xét chung của cộng đồng người nhưng nó đã giữ một vai trò vừa là phương tiện giáo dục vừa là phương tiện định hướng vừa điều tiết hành vi con người.

Dư luận xã hội có vai trò và tác động quan trọng đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như kinh tế chính trị đạo đức pháp luật văn hóa giáo dục trong đó phải kể đến sự tác động ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay sự ảnh hưởng đó thể hiện trên các phương diện sau:

Thứ nhất, một dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thông qua tiếng nói chung của nhân dân nên đó là điều kiện cần thiết để tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ xã hội mở rộng nền dân chủ xã hội tích cực tham gia vào hoạt động pháp luật. Như đã nói ở trên các tầng lớp nhân dân là chủ thể rộng rãi có hoạt động này, Hiến pháp của nhà nước ta đã khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đồng thời thiết lập cơ chế bảo đảm sao cho lợi ích của nhân dân và luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhân dân giữa chế độ ta nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình. Dân chủ đại diện là hình thức cơ bản mà thông qua đó nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước vận hành theo quy định của hiến pháp theo cơ chế này nhân dân tạo ra cơ quan đại diện cơ quan đại diện trực tiếp tiếp dân quyền lực về nhân dân nên còn được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước. Đối với trường hợp của BLHS 2015 nói riêng và các văn bản khác nói chung, việc tham gia ý kiến của người dân luôn ít trong quá trình dự thảo, lấy ý kiến người dân, nhưng khi văn bản được ban hành, sự tham gia này lại rất tích cực. Đây là một hiện trạng cần thay đổi để tránh trường hợp này lặp lại một lần nữa ở nước ta.

Thứ hai, dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực với quá trình xây dựng pháp luật đối với việc ban hành các quyết định của cá nhân nhà chức trách có thẩm quyền. Để các văn bản pháp luật xác thực tế các văn bản quản lý hành chính nhà nước đúng đắn có tính khả thi cao trước khi xây dựng soạn thảo các dự án luật hay ban hành các quyết định các cơ quan lập pháp cơ quan quản lý nắm bắt được thực trạng tư tưởng tâm lý các đối tượng xã hội và văn bản pháp luật. Mọi chủ trương chính sách pháp luật khó có thể trở thành hiện thực nếu không hợp lòng dân không được nhân dân ủng hộ. Ý kiến về BLHS 2015, Nguyên chánh tòa hình sự TANDTC Đinh Văn Quế nói trên báo Tuổi Trẻ rằng: “Nếu nghiên cứu kỹ bộ luật Hình sự 2015, có thể thấy một số điều luật nếu không có giải thích hoặc hướng dẫn thì không thể áp dụng được”. Ví dụ điều 175 (điều 140 bộ luật Hình sự 1999) quy định về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đã bỏ tình tiết “bỏ trốn để chiếm đoạt” trước đây quy định tại điểm a khoản 1 điều 140 bộ luật Hình sự. Vậy kể từ ngày 1/7/2016 trở đi cứ vay mượn, thuê tài sản của người khác rồi bỏ trốn để chiếm đoạt thì không phạm tội sao? Hay như quy định điều 12, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội đã được liệt kê trong điều luật, còn các tội phạm khác không được “liệt kê” tại điều 12 thì không phải chịu trách nhiệm hình sự…Những ý kiến này đã được tiếp thu và sửa đổi trong lần chỉnh sửa sau đó.

Thứ 3, dư luận xã hội không mang tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh rất to lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi hoạt động của các thành viên trong xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật. Các cá nhân nhà chức trách có thẩm quyền với tư cách là chủ thể xây dựng pháp luật cần phải biết lắng nghe dư luận xã hội một cách nghiêm túc và phân tích nó một cách khoa học để rút ra được những kết luận chính xác về thực trạng. 

5. Thông tin đại chúng ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động XDPL

Sự hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí truyền thanh truyền hình có tác động rất mạnh mẽ và quan trọng tới hoạt động xây dựng pháp luật thể hiện ở các điểm sau:

Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin tương đối đầy đủ và đa dạng về các sự việc sự kiện hiện tượng pháp lý xảy ra trong hệ thống chính trị xã hội pháp luật phản ánh hoạt động tiếp xúc cử tri của Quốc hội Hội đồng Nhân dân các cấp qua đó phương tiện truyền thông tác động tới nhận thức của các chủ thể về tầm quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật tạo cơ sở thông tin để các tầng lớp xã hội tham gia vào hoạt động xã hội tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. Thật vậy, quá trình xây dựng dự thảo, ban hành BLHS 2015 cũng rất rầm rộ trên báo, đài, tivi và cả mạng xã hội. Truyền thanh, truyền hình liên tục đưa tin liên quan đến hoạt động này, chính vì vậy, sự tham gia của người dân cũng nhiều và hiệu quả hơn.

Các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những thông tin về chính sách pháp luật của Nhà nước, các dự thảo văn bản pháp luật mới đưa các thông tin đó đến được với đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thông tin đại chúng có những diễn đàn ngôn luận để các chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật tham gia bình luận phân tích đóng góp ý kiến vào hình thức nội dung cấu trúc văn bản pháp luật. Đồng thời các phương tiện thông tin đại chúng đang giải quyết thông tin phản hồi có ý kiến đóng góp của các nhà khoa học các tầng lớp nhân dân cho hoạt động xây dựng pháp luật. Bằng cách tác động đó thông tin nhà nước giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp thông tin xử lý chọn lọc các ý kiến đánh phục vụ cho việc sửa đổi bổ sung và ngày càng hoàn thiện các văn bản pháp luật. Ngoài ra các phương tiện thông tin đại chúng còn góp phần đấu tranh chống lại các ấm nước phá hoại các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc bịa đặt của các thế lực thù địch về nội dung bản chất hệ thống pháp luật nước ta cùng cố niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.