1. Khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án

Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì vụ án dân sự phải được giải quyết trong một khoảng thời gian nhất định, nếu quá thời hạn tối đa theo quy định của pháp luật mà vụ án vẫn chưa giải quyết thì bị coi là vi phạm thời hạn xét xử. Thông thường các Tòa án đều cố gắng giải quyết vụ án trong thòi hạn luật định. Nhưng thực tế trong quá trình tố tụng mới xuất hiện các sự kiện làm cho Tòa án dù đã nỗ lực hết sức nhưng không thể nào tiếp tục giải quyết vụ án. Vì vậy, pháp luật tố tụng đã quy định những trường hợp tạm thời ngừng giải quyết vụ án, chứ không phải ngừng vĩnh viễn hoặc không giải quyết vụ án nữa. Vậy tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chính là việc Tòa án ra quyết định tạm ngừng giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quý định.

Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án chỉ là việc tạm thời ngừng giải quyết vụ án trong một khoảng thòi gian, chứ không phải chấm dứt giải quyết vụ án, đình chỉ tố tụng, nên Tòa án không xóa sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ là tạm đình chỉ. Pháp luật không quy định thời gian tạm đình chỉ, mà việc tạm đình chỉ dài hay ngắn phụ thuộc vào diễn biến của căn cứ tạm đình chỉ. Khi căn cứ tạm đình chỉ không còn, thì phải đưa ngay vụ án ra tiếp tục giải quyết.

Theo quy định tại Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì có các căn cứ tạm đình chỉ sau đây:

2. Tạm đình chỉ do chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng

Nếu đương sự là cá nhân đang tham gia trong quá trình tố tụng bị chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì theo quy định tại khoản 1 Điều 62 Bộ luật tố" tụng dân sự hiện hành thì người thừa kế tham gia tố tụng. Do đó, khi chưa xác định được người thừa kế, hoặc vì một lý do nào đó người thừa kế chưa thể tham gia tố tụng; ví dụ chưa xác định được địa chỉ của người thừa kế, người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng đang đi nước ngoài rất dài ngày, nên chưa hỏi được ý kiến của họ, người thừa kế bị ốm nặng chưá thể hiện được ý chí... trong khi thời hạn giải quyết vụ án đã gần hết thì Tòa án phải tạm đình chỉ.

Trường hợp cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách mà chưa có cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa: vụ tố tụng của cơ quan, tố chức đó là trường hợp đã có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc sáp nhập, chia, tách cơ quan, tổ chức đó, nhưng cơ quan, tổ chức mới chưa được thành lập hoặc đã được thành lập nhưng chưa có đủ điều kiện để hoạt động theo quy định của pháp luật đối với loại hình cơ quan, tổ chức đó.

Trường hợp cơ quan, tổ chức đã giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó là trường hợp chưa xác định được cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng và Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ.

Việc xác định cơ quan, tổ chức... nào sẽ là người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng trong trường hợp cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức phải căn cứ vào Điều 62 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Khoản 2 và khoản 5 Điều 62 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định:

“2. Trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức đó được xác định như sau:

a) Trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng;

b) Trường hợp cơ quan, tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp nhà nước thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó hoặc đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức tiếp nhận các quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó tham gia tố tụng;

c) Trường hợp tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì cá nhân, tổ chức tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của tổ chức đó tham gia tố tụng.

3. Trường hợp thay đổi chủ sở hữu của tổ chức và có việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho chủ sở hữu mới thì chủ sở hữu mới kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.

4. Trường hợp tổ chức được chuyển giao quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về dân sự thì tổ chức đó kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.

5. Trường hợp tổ chức không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự mà người đại diện đang tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người khác làm đại diện để tham gia tố tụng; nếu không cử được người đại diện hoặc tổ chức đó phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể thì các cá nhân là thành viên của tổ chức đó tham gia tố tụng.”

3. Đương sự mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật:

Khi đương sự là cá nhân trong quá trình tham gia tố tụng bị mất năng lực hành vi dân sự, thì phải căn cứ vào Điểu 53, 54 Bộ luật dân sự năm 2015, Điểu 85 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành để “tìm” người đại diện theo pháp luật cho họ.

Điều 53 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:

“Điều 53. Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự

Trường hợp không có người giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như sau:

1. Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.

2. Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.

3. Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.”

Trường hợp chưa xác định được người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng thì Tòa án phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

4. Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế

“Đại diện hợp pháp của đương sự” có thể thuộc một trong hai trường hợp sau:

- Người đại diện theo pháp luật.

- Người đại diện theo ủy quyền.

Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về người đại diện theo pháp luật như sau:

“Điều 137. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân

1. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:

a) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;

b) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;

c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

2. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này.”

Điều 138 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người ủy quyển là:

“Điều 138. Đại diện theo ủy quyền

1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

2. Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

3. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.”

Người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự.

Cần chú ý là cá nhân, cơ quan, tổ chức khỏi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người đượcbảovệ.

Người đại diện theo ủy quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, cần lưu ý là riêng việc ly hôn do một bên yêu cầu hay thuận tình ly hôn thì đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng để giải quyết việc ly hôn hay yêu cầu công nhân thuận tình ly hôn. Tuy nhiên, đôì với các quan hệ khác trong hôn nhân như quan hệ con cái, tài sản thì có quyển ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng.

5. Cần kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan, sự việc mà pháp luật quy định là cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước

Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan được hiểu là vụ án được giải quyết trước phải có liên quan đến các yêu cầu mà hai bên đương sự đặt ra trong vụ án này; kết quả giải quyết trong vụ án “khác” được giải quyết trước có thể là căn cứ để xem xét hoặc không xem xét yêu cầu nào đó của đương sự ở vụ án mà Tòa án đang thụ lý và sẽ tạm đình chỉ.

Ví dụ: đương sự xin chia di sản thừa kế hoặc chia tài sản chung vợ chồng, trong khi đối tượng tài sản mà đương sự xin chia (thừa kế hoặc tài sản chung) lại đang bị tranh chấp quyền sở hữu trong một vụ án khác thì việc xin chia di sản thừa kế hoặc chia tài sản chung vợ chồng phải tạm đình chỉ chờ kết quả giải quyết của vụ án tranh chấp quyền sỏ hữu tài sản.

Sự việc được pháp luật quy định phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước, sau đó mới giải quyết được vụ án.

Ví dụ: Tòa án nhân dân huyện X đang giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn A và bị đơn B xuất phát từ giao dịch trái pháp luật giữa A và B thì nhận được thông báo của Viện kiểm sát nhân dân huyện X về giao dịch giữa A và B có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự và yêu cầu Tòa án nhân dân huyện X chuyển hồ sơ để điểu tra hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Trường hợp này, Tòa án nhân dân huyện X cần tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả điều tra của Cơ quan có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật đó. Nếu cơ quan điều tra kết luận giao dịch dân sự trái pháp luật giữa A và B chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, thì Tòa án nhân dần huyện X tiếp tục giải quyết vụ án tranh chấp giữa A và B về giao dịch trái pháp luật đó.

Thông thưòng, các trường hợp này Tòa án căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành vì “chưa có đủ điểu kiện khởi kiện” để trả lại đơn khởi kiện, không được thụ lý, nhưng trong thực tế có trường hợp sau khi thụ lý mới phát hiện ra “thủ tục” tiền tố tụng này hoặc trong quá trình tố tụng mới xuất hiện căn cứ “cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan, hoặc sự việc được pháp luật quy định là cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước...”, do đó Tòa án phải tạm đình chỉ để chờ kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức khác, chờ kết quả giải quyết vụ án khác. Khi nhận được kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức khác... thì Tòa án tiếp tục đưa vụ án ra giải quyết. Tùy theo diễn biến của sự việc để xử lý; ví dụ: Sau khi có kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc có kết quả giải quyết vụ án khác, đương sự đồng ý và rút đơn khởi kiện hoặc người khỏi kiện không có quyền khởi kiện thì căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đình chỉ giải quyết vụ án. Nếu vụ án không thuộc trường hợp đình chỉ giải quyết thì phải đưa vụ án ra xét xử và tùy thuộc vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ mà bác đơn khỏi kiện hay chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện, V.V..

6. Cần kết quả của ủy thác tư pháp hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được

ủy thác tư pháp và yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ là một trong những biện pháp quan trọng nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án. Qua thực tế áp dụng cho thấy, để có được kết quả sau khi ủy thác tư pháp, hoặc có được các tài liệu, chứng cứ do các cơ quan, tổ chức cung cấp theo yêu cầu của Tòa án thường phải mất thòi gian khá dài, ít nhất cũng hàng tháng, thậm chí cả năm (đối với việc ủy thác), không ít trường hợp việc ủy thác không có kết quả do không nhận được phản hồi của cơ quàn được ủy thác, cơ quan được ủy thác trả lời không thực hiện được với nhiều lý do khác nhau. Việc kéo dài này hoàn toàn do khách quan, nằm ngoài tầm kiểm soát của Tòa án. Vì vậy, Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành coi đây là một căn cứ để tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Tòa án chỉ ra quyết định tạm đình chỉ theo căn cứ này khi chỉ còn một vài ngày là hết thòi hạn chuẩn bị xét xử mà vẫn chưa có được kết quả ủy thác tư pháp hoặc việc cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức.

Dù đã tạm đình chỉ, nhưng Tòa án vẫn phải đôn đốc nơi được ủy thác, cơ quan, tổ chức khẩn trương trả lời, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong văn bản ủy thác...

7. Các trường hợp khác theo pháp luật quy định:

Theo hưống dẫn tại khoản 6 Điều 22 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là: “Các trường hợp khác mà pháp luật cô quy định” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 214 của Bộ luật tố tụng dân sự là các trường hợp làm căn cứ cho Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mà trong Bộ luật tô tụng dân sự này chưa quy định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau khi Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

Như vậy, phải hiểu muốn ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì phải căn cứ vào một trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đã được bổ sung, sửa đổi. Nếu muốn áp dụng điểm h khoản 1 Điều 214 để tạm đình chỉ thì đồng thời phải viện dẫn các quy định khác trong văn bản quy phạm pháp luật khác, chứ không áp dụng Điều 214 và viện dẫn các quy định khác trong Bộ luặt tố tụng dân sự để ra quyết định tạm đình chỉ.

Cách giải thích hưống dẫn của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP là hoàn toàn hợp lý và khoa học.

Tuy nhiên, trong thực tiễn khi áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trước đây để ra quyết định tạm đình chỉ đã xuất hiện các quan điểm và áp dụng căn cứ tạm đình chỉ khác nhau xuất phát từ quy định tại Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Điều 71 Bộ luật tốtụng dân sự năm 2015 quy định nguyên đơn có quyền “đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án”, còn các đương sự khác không có quyền này, điều đó có nghĩa là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã xác định đó là một quyển tố tụng của nguyên đơn thì phải coi đây là một căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ khi có yêu cầu của nguyên đơn, không cần đòi hỏi thêm lý do hay căn cứ nào khác.

Quan điểm thứ hai, cơ bản như quan điểm thứ nhất nhưng có điểm khác là khi nguyên đơn đề nghị Tòa án cho tạm đình chỉ thì phải đưa ra được lý do chính đáng, khi Tòa án đánh giá, xác định lý do mà nguyên đơn xin tạm đình chỉ là lý do chính đáng thì Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ. Trên thực tế, không ít Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ khi nguyên đơn đưa ra các lý do như: để có thời gian thu thập thêm chứng cứ, nguyên đơn đang chữa bệnh, đi công tác nước ngoài, lý do bận việc, lý do để giải quyết việc riêng, thậm chí xin tạm đình chỉ với lý do đi du lịch hoặc chỉ ghi lý do “theo để nghị của nguyên đơn” mà không đề cập gì đến lý do cụ thể mà nguyên đơn để cập trong đơn khi xin tạm đình chỉ...

Quan điểm thứ ba cho rằng, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không nằm trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Quy định ở Điểu 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chính là quy định khác của pháp luật, không cần phải xem xét để nghị của nguyên đơn xin tạm đình chỉ có lý do chính đáng hay không, vì luật không đòi hỏi phải có lý do chính đáng khi đề nghị tạm đình chỉ và sau khi có quyết định tạm đình chỉ khi nào nguyên đơn để nghị Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án thì Tòa án đưa vụ án ra giải quyết. Do đó, khi nguyên đơn yêu cầu Tòa án tạm đình chỉ thì Tòa án phải viện dẫn Điểu 71 và điểm h khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

Hiện nay, nhiều người vẫn quan niệm khoản 18 Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành “Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật này” là một căn cứ để tạm đình chỉ và phân tích rằng, với việc bổ sung thêm khoản 18 Điều 58 đã tạo ra sự công bằng giữa các đương sự trong việc yêu cầu Tòa án cho tạm đình chỉ. khoản 18 Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đã chỉ rõ hơn đây là một căn cứ tạm đình chỉ khi thêm cụm từ “theo quy định của Bộ luật này” và điểm X là một quy định của Bộ luật. Mặt khác, nếu nhà làm luật không coi đây là một căn cứ để tạm đình chỉ thì tại sao cũng có những quy định khác nhà làm luật không quy định đó là một quyền của đương sự như các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án được quy định ở Điều 217, hoặc luật có quy định về các trường hợp hoãn phiên tòa, tại sao Bộ luật tố tụng dân sự không quy định quyền: “đề nghị” đình chỉ giải quyết vụ án, đề nghị hoãn phiên tòa, V.V..

Việc có coi khoản 18 Điểu 70 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành là một căn cứ để tạm đình chỉ hay không có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn. Vì nếu coi đây là một căn cứ tạm đình chỉ thì sẽ có phần lởn các quyết định tạm đình chỉ dựa trên căn cứ này và chỉ cần đương sự đề nghị là ra quyết định tạm đình chỉ, hoặc ngoài việc đề nghị của đương sự thì thêm điều kiện là phải có lý do chính đáng; vậy như thế nào được coi là lý do chính đáng: Những lý do mà có Tòa án đã căn cứ vào để ra quyết định tạm đình chỉ như phân tích ở trên có được coi là lý do chính đáng? Điều quan trọng là đã có Thẩm phán, có Tòa án coi đây là một căn cứ để tạm đình chỉ, có nơi không coi đó là căn cứ tạm đình chỉ. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định khoản 18 Điều 70, diện những người có quyền đề nghị sẽ nhiều hơn, nguy cơ áp dụng khác nhau càng lớn. Vì vậy, cần phải sớm có hưống dẫn của cơ quán có thẩm quyền để có nhận thức, áp dụng thống nhất bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Theo quan điểm của tác giả thì không nên hướng dẫn theo hướng coi đây là một căn cứ tạm đình chỉ độc lập được quy định ở Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành hoặc coi là một trường hợp tạm đình chỉ khác để áp dụng khoản 1 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành bởi các lý do sau:

- Nếu coi quyển “đề nghị Tòa án tạm đình chỉ” cửa đương sự là một căn cứ để tạm đình chỉ, thì vể mặt khoa học, khi sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự phải quy định vào một khoản của Điều 214 với ý nghĩa là một căn cứ để tạm đình chỉ, nhưng nhà làm luật không bổ sung vào Điểu 214 mà chỉ bổ sung vào Điều 70 với ý nghĩa là một quyền “để nghị” để tất cả các đương sự đều có quyền này chứ không phải chỉ có nguyên đơn có quyền đề nghị Tòa án tạm đình chỉ như trước đây, tạo sự công bằng, bình đẳng giữa các đương sự.

- Quyền này của đương sự chỉ ở dạng “đề nghị”. Việc đương sự đề xuất, “đề nghị” chỉ là việc đề đạt nguyện vọng, thể hiện ý chí, mong muốn của đương sự về vấn đề đó với cơ quạn tiến hành tố tụng. Nếu có cơ sỏ để áp dụng các quy định ở Điềư 214 hoặc Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì dù đương sự không có để xuất, để nghị thì Tòa án vẫn phải áp dụng Điều 214 để tạm đình chỉ hoặc Điều 217 để đình chỉ giải quyết vụ án.

Việc Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành có quy định một số trường hợp đương sự có quyền đề nghị như quy định ở Điểu 70 chỉ với ý nghĩa là thông qua quyền này của đương sự đòi hỏi Tòa án phải xem xét thận trọng, tránh sơ xuất đối với những vấn đề luật đã quy định rõ và các quy định đó có ý nghĩa quan trọng về tốtụng.

- Khi quyền đó chỉ là quyền “đề nghị” thì đề nghị đó có thể được chấp nhận, nếu phù hợp với các căn cứ mà luật đã quy định về vấn đề đó, còn nếu đề nghị đó không dựa trên bất cứ căn cứ nạo của pháp luật, thì đề nghị đó sẽ không được chấp nhận. Do đó, việc dượng sự đề nghị tạm đình chỉ nếu không thuộc một trong 6 trường hợp được quy định ở Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì Tòa án sẽ không chấp nhận đề nghị đó, không ra quyết định tạm đình chỉ.

- Nếu các cơ quan có thẩm quyền đi theo hướng coi quy định tại khoản 18 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành là căn cứ tạm đình chỉ độc lập thì sẽ dẫn đến tạm đình chỉ tràn lan, đương sự nếu muốn, sẽ lợi dụng quy định này để gây khó dễ cho bên kia, kéo dài việc kiện, chỉ bằng một động tác làm đơn đề nghị Tòa án tạm đình chỉ.

Nếu Tòa án chỉ công nhận đề nghị tạm đình chỉ khi “có lý do chính đáng và thời gian đề nghị tạm đình chỉ không vượt quá thời hiệu” thì giải thích này đã trái với quy định ở khoản 18 Điều 70, vì Khoản này không có đưa ra điều kiện khi đề nghị tạm đình chỉ phải có lý do chính đáng. Hội đồng Thẩm phán, hay cơ quan liên ngành không phải là cơ quan có quyền giải thích luật, thì việc hưống dẫn khi đương sự đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án phải đưa ra được lý do chính đáng, và thòi gian xin tạm đình chỉ không được vượt quá thòi hiệu khởi kiện chính là đặt ra thêm điều kiện có nội dung của một quy định mới bổ sung luật. Việc hướng dẫn như vậy là vi hiến. Thêm nữa, nếu đưa thêm yếu tố “lý do chính đáng” để chấp nhận đề nghị của đương sự là sẽ tạo thêm kẽ hỏ tùy tiện cho người áp dụng pháp luật. Hoặc muốn hạn chế sự tùy tiện thì phải đưa ra khái niệm thật cụ thể thế nào được coi là lý do chính đáng. Hơn nữa, dù có đưa ra được khái niệm thì cũng sẽ rất trừu tượng, nên nguy cơ tùy tiện áp dụng là rất lớn.

- Mặt khác, khoản 18 Điều 70 quy định: “đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật này”, điều đó có nghĩa là chỉ khi Bộ luật tố tụng dân sự có quy định đây là một căn cứ tạm đình chỉ thì mới được áp dụng quy định này. Điều 214 sau khi được sửa đổi, bổ sung đã không coi việc đương sự đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án là một căn cứ để tạm đình chỉ, vì vậy không thể chỉ căn cứ vào khoản 18 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự để ra quyết định tạm đình chỉ.