1. Khái quát về chế định

Các quy phạm của chế định này lần đầu tiên đã chính thức điều chỉnh riêng về mặt lập pháp trong Chương XI Bộ luật Hình sự năm 2015 mà được gọi là “Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội”.

Vì đây là Chương mới trong pháp luật hình sự Việt Nam với tất cả 16 điều, đó là các điều từ điều 74 đến điều 89 Bộ luật hình sự năm 2015.

Theo đó, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương XI này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật hình sự năm 2015 không trái với quy định của Chương XI này.

Về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

"1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;

b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;

c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;

d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.

2. Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân."

Ở đây chúng ta sẽ không đưa ra sự phân tích nội hàm các quy phạm của chế định đã nêu mà chúng ta chỉ đưa ra nhận xét chung dưới góc độ kỹ thuật lập pháp dưới đây.

 

2. Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự

Vì cùng là một chủ thể của trách nhiệm hình sự nhưng trách nhiệm hình sự của chủ thể thứ ba này có những đặc điểm khác với trách nhiệm hình sự của hai chủ thể kia, hai chủ thể kia chính là: Người lớn phạm tội và người chưa thành niên phạm tội, nhưng Chương XI Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn còn thiếu nhiều quy định về trách nhiệm hình sự của chủ thể thứ ba này (pháp nhân thương mại) mà một trong các nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất là vì Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có các điều luật riêng biệt đề cập việc:

- Giải thích các thuật ngữ trong Bộ luật Hình sự vì nếu như có sự giải thích này thì sẽ có lợi ích là làm rõ được rất nhiều phạm trù quan trọng được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự (như “Chủ thể phạm tộỉ’ là gì?, “Chủ thể của trách nhiệm hình sự’ là gì?...);

- Khẳng định về mặt lập pháp sự phân định rõ ràng là ba hệ thông các hình phạt, các biện pháp tư pháp và việc quyết định hình phạt được áp dụng đối vôi ha chủ thể phạm tội sẽ ghi nhận bằng các quy phạm riêng biệt tương ứng (như trong các kiến giải lập pháp dưối đây tại Chương V sách chuyên khảo này).

Chủ thể là pháp nhân, điều kiện trở thành pháp nhân mặc dù không được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015, nhưng chủ thể nào đã được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể:

Theo điều Điều 74 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về: Pháp nhân

"1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;

b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;

c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;

d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.

2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác."

Pháp nhân được phân thành hai nhóm: Pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại.

Tại Điều 75 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về: Pháp nhân thương mại

"1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.

2. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.

3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan."

Tại Điều 76 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về: Pháp nhân phi thương mại như sau

"1. Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên.

2. Pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác.

3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân phi thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan."

 

3. Bản chất chủ thể chịu trách nhiệm hình sự

Cách ghi nhận về nội hàm của các quy phạm tại điểm a khoản 1 Điều 75 Bộ luật hình sự năm 2015 chính là minh chứng rõ ràng nhất về việc pháp nhân thương mại không phải là chủ thể của tội phạm mà chỉ có thể là chủ thể của trách nhiệm hình sự.

"Điều 75. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;

b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;

c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;

d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này..."

Bởi lẽ rằng bằng thuật ngữ “được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại” ở đoạn cuối của quy phạm tại điểm a khoản 1 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã cho thấy phải có chủ thể nào đó (mà chắc chắn phải là cá nhân chứ không thể pháp nhân) đã nhân danh pháp nhân thương mại phạm tội.

Về mặt này, đúng như luận điểm khoa học xác đáng của nhà hình sự học hàng đầu của Việt Nam đương đại, người đã dành nhiều tâm huyết cho việc soạn thảo và nghiên cứu cho Bộ luật Hình sự thứ ba của đất nước, đó chính là GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Trường Đại học Luật Hà Nội) đã khẳng định như sau: “Pháp nhân thương mại không thể là chủ thể của thực hiện tội phạm mà chỉ có thể là chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm do cá nhân (người) thực hiện. Do vậy, chỉ có thể có pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự mà không cồ pháp nhân thương mại phạm tội theo đúng nghĩa”.

 

4. Bình luận về hình phạt và biện pháp tha miễn đối với pháp nhân thương mại

Việc ghi nhận các quy phạm về hình phạt và biện pháp tha miễn đối với pháp nhân thương mại vẫn còn phi khoa học và thiếu tính logic khi chưa tập trung gọn trong cùng 01 chương đề cập riêng về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (mà còn bị ghi nhận rải rác tại các chương khác nhau), mà cụ thể là:

- Việc liệt kê tên gọi của các hình phạt đối với pháp nhân thương mại thì được quy định tại Chương VI cụ thể là Điều 33:

"Điều 33. Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

1. Hình phạt chính bao gồm:

a) Phạt tiền;

b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;

c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

2. Hình phạt bổ sung bao gồm:

a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;

b) Cấm huy động vốn;

c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

3. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung."

Tuy nhiên, nội hàm cụ thể của từng hình phạt thì lại bỏ qua bốn chương khác (VII, VIII, IX và X) để ở Chương XI đó là các điều từ điều 77 đến 81 của Bộ luật; và tương tự như vậy

- Việc liệt kê tên gọi của các biện pháp tha miễn đối với pháp nhân thương mại thì tại Chương VII, cụ thể là tại khoản 2 Điều 48

"Điều 48. Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi

1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.

2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại."

Tuy nhiên việc áp dụng và nội hàm cụ thể của từng biện pháp tư pháp thì tại Chương XI tại Điều 82 của Bộ luật.

"Điều 82. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội

1. Tòa án có thể quyết định áp dụng các biện tư pháp sau đây đối với pháp nhân thương mại phạm tội:

a) Các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật này;

b) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;

c) Buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.

...

3. Căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể, Tòa án có thể quyết định buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải thực hiện một hoặc một số biện pháp sau đây nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả của tội phạm:

a) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;

b) Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;

c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật; hàng hóa nhập khẩu, quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm;

d) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật;

đ) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;

e) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường."

 

5. Hạn chế của quy định biện pháp tha miễn đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Vẫn còn thiếu nhiều quy phạm về các biện pháp tha miễn đối với pháp nhân thương mại phạm tội (và) bị kết án (vì Bộ luật Hình sự năm 2015 mới chỉ ghi nhận có hai quy phạm về miễn hình phạt và xóa án tích dành riêng cho pháp nhân thương mại bị kết án, quy định tại các điều 88, 89 của Bộ luật.

Và chính hạn chế này lại một lần nữa là minh chứng xác đáng về sự cần thiết của Bộ luật Hình sự Việt Nam trong tương lai cần có điều luật đầu tiên để giải thích một số thuật ngữ chủ yếu như: “chủ thể’, “chủ thể phạm tội”, “chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự’“chủ thể bị kết án”, nhằm nhân đạo hóa pháp luật hình sự nước nhà, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.

Trân trọng!