Mục lục bài viết
- 1. Cho vay với lãi suất 1.5 % trên một tháng có vi phạm pháp luật không?
- 2. Vay tiền lãi suất 6,17%/tháng có vi phạm pháp luật không?
- 3. Xử lý thế nào khi không ký hợp đồng vì lãi suất quá cao ?
- 4. Tư vấn về lãi suất cho vay ?
- 5. Có nên bỏ trần lãi suất không ?
- 6. Những rủi ro về lãi suất dưới góc độ pháp lý ?
1. Cho vay với lãi suất 1.5 % trên một tháng có vi phạm pháp luật không?
Luật sư tư vấn quy định pháp luật về lãi suất, gọi ngay: 1900.6162
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tư vấn về công ty luật Minh Khuê. Vướng mắc của bạn, chúng tôi xin được tư vấn như sau:
Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự như sau:
Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Về mức lãi suất trong giao dịch dân sự, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định như sau:
Điều 468. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
Từ các quy định trên, để cấu thành tội cho vay lãi nặng, bạn phải đáp ứng các dấu hiệu sau:
1. Lãi suất cho vay gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự (tức từ 100%/1 năm trở lên).
2. Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000.
Xét trường hợp của bạn, lãi suất cho vay của bạn là 1,5 %/1 tháng tức là 18%/1 năm. Theo các quy định trên, lãi suất cho vay của bạn chưa gấp từ 5 lần mức lãi suất cao nhất được quy định trong giao dịch dân sự và thực tế là lãi suất của bạn mới chỉ là 18%/1 năm, còn thấp hơn mức lãi suất cao nhất theo quy định của Điều 468 Bộ luật Dân sự. Do vậy, bạn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này.
Về việc bạn của bạn vay tiền không trả:
Theo thông tin bạn cung cấp, giấy vay tiền được lập giữa bạn và bạn của bạn là căn cứ quan trọng thể hiện việc người đó có vay tiền của bạn. Giấy vay tiền này không bắt buộc phải công chứng, chứng thực hoặc phải có người làm chứng.
Để đòi lại tiền, bạn có thể làm đơn khởi kiện gửi ra Tòa án nhân dân nơi bạn của bạn đang cư trú kèm theo các tài liệu chứng cứ.
Nếu đến thời hạn trả tiền mà bạn của bạn cố tình không trả, bạn có thể thu thập các bằng chứng chứng minh việc bạn của bạn có ý định "quỵt nợ" sau đó làm đơn tố cáo gửi cơ quan công an cấp quận, huyện về hành vi lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:
Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi số: 1900.6162 để được giải đáp.
Trân trọng./.
2. Vay tiền lãi suất 6,17%/tháng có vi phạm pháp luật không?
Luật sư tư vấn luật dân sự về lãi suất, gọi: 1900.6162
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty Luật Minh Khuê. Về thắc mắc của bạn, chúng tôi xin được trả lời như sau:
Về việc cho vay với lãi suất 6,17%/tháng.
Điều 468 Bộ Luật dân sự 2015 quy định như sau:
Điều 468. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
Như vậy, đối với trường hợp các bên thỏa thuận về mức lãi thì lãi suất cho vay không được vượt quá 20% của khoản tiền vay
Ở đây, bạn phải vay với lãi suất 6,17%/tháng, tức là 74.04%/năm. Tức là mức lãi suất vượt quá 20% cho phép. Vì vậy, đây là hành vi vi phạm pháp luật.
Nếu trong hợp đồng vay tài sản, các bên có thỏa thuận về mức lãi suất vượt quá 20% của khoản tiền vay, khi có tranh chấp xảy ra thì Nhà nước không thừa nhận và bảo vệ quyền lợi cho bên vay.
Về việc đến hạn trả mà bạn chậm trả
Theo quy định tại khoản 5, điều 466 BLDS thì:
Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Trên đây là phần tư vấn của chúng tôi.Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào khác bạn có thể trực tiếp đến văn phòng của công ty chúng tôi vào giờ hành chính ở địa chỉ trụ sở Công ty luật Minh Khuê hoặc bạn có thể liên hệ với chúng tôi qua địa chỉ Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Emailhoặc gọi điện để được tư vấn qua tổng đài 1900.6162.
Trân trọng./.
3. Xử lý thế nào khi không ký hợp đồng vì lãi suất quá cao ?
Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến (24/7) gọi số: 1900.6162
Trả lời:
Chào bạn! Rất cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi vào chuyên mục của chúng tôi.Trường hợp của bạn được giải quyết như sau :
Căn cứ theo quy định tại Điều 463 bộ Luật Dân sự 2015
Điều 463. Hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
Căn cứ theo quy định tại Điều 401 Bộ luật dân sự 2015:
Điều 401. Hiệu lực của hợp đồng1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.2. Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Như vậy thì hợp đồng sẽ có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trường hợp của bạn, hai bên chưa thỏa thuận được về lãi suất và bạn cũng chưa ký vào bất kỳ văn bản, giấy tờ gì nên hợp đồng này chưa được xác lập. Vì vậy, bạn hoàn toàn có quyền không ký hợp đồng nữa.
Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng qua email Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Email hoặc qua tổng đài 1900 6162. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng./.
4. Tư vấn về lãi suất cho vay ?
Luật sư tư vấn pháp luật dân sự gọi:1900.6162
Luật sư tư vấn:
Theo điều 201 Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về Tội cho vay nặng lãi như sau:
Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.2.Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lênthì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, việc cho vay nặng lãi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau đây:
- Thứ nhất: Lãi suất cho vay cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 5 lần trở lên.
- Thứ hai: thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng
Bạn có thể khởi kiện ra tòa với tranh chấp về xác định lãi suất của hợp đồng vay. Khi đó, tòa sẽ xác định lại lãi suất vay.
>> Tham khảo bài viết liên quan: Cho vay lãi 2 nghìn/ triệu /ngày có phải vay nặng lãi ?
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.
5. Có nên bỏ trần lãi suất không ?
Trong thời gian qua có quá nhiều biện pháp hành chính đã được dùng trong nền kinh tế, gây lo ngại về xu hướng quay lại cách quản lý thời xưa đã bị cuộc sống phủ định. Ngân hàng Nhà nước có các công cụ “thị trường” của mình để điều tiết và nên huỷ bỏ các biện pháp hành chính, nhất là các loại trần lãi suất.
Dùng các trần lãi suất luôn làm méo mó thị trường, và các ngân hàng thương mại muốn hoạt động bình thường đều phải “lách”. Họ lách trần lãi suất cho vay bằng cách thu các loại phí.
Trần huy động tiền gửi thực ra không có, nhưng nếu bất cứ ngân hàng thương mại nào huy động trên 10,5%/năm là bị nhắc nhở, thanh tra toàn diện luôn. Các ngân hàng lại phải “lách” bằng cách thưởng, khuyến mãi đủ loại. Chi phí thực về huy động của các ngân hàng có khi lên đến 12%/năm hay hơn (gửi nhiều có thể được hưởng “lãi suất thật” lên đến 12 thậm chí 13%/năm). Họ không thể cho vay 13%/năm vì sẽ lỗ nặng.
>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.6162
Và như thế, khi cho vay, do bị trần lãi suất ràng buộc nên lãi suất ghi trên hợp đồng danh nghĩa luôn là mức trần (12%/năm), nhưng cái giá thật (lãi suất thực mà người vay phải trả) đã ở mức 15-17%/năm từ nhiều tháng nay rồi. Đó là thực tế cuộc sống, không thể trách các ngân hàng “lách” luật. Quy định chưa sát, không ăn nhập với cuộc sống, buộc họ phải làm vậy và làm thế không vi phạm luật hiện hành.
Nhưng việc đó gây hại đơn hại kép. Người dân (kể cả doanh nghiệp và ngân hàng) phải tìm cách “lách”, tinh thần thượng tôn pháp luật và niềm tin vào pháp luật bị xói mòn, rủi ro kinh doanh tăng, thị trường bị méo mó, các công cụ điều tiết của Nhà nước còn ít tác dụng, vân vân và vân vân.
Và như thế, việc điều chỉnh vừa rồi của Ngân hàng Nhà nước chỉ là sự hợp thức hoá sự thực đã rồi trên thương trường. Nhưng mới áp dụng cho các khoản vay trung và dài hạn. Ngân hàng lại tiếp tục “lách”, cho vay 6 tháng cũng ghi luôn là 366 ngày rồi khách hàng sẽ tự nguyện “trả trước”. Tổng lượng vay “trung dài hạn” dỏm sẽ tăng lên đáng kể, số liệu thống kê méo mó. Thanh tra lại có nhiều việc để làm và để hành và có thể cả “thu” nữa. Lại làm méo mó thị trường, tăng chi phí, giảm hiệu suất, tăng rủi ro.
Tự chúng ta (Nhà nước, những người làm luật và có quyền quyết định chính sách, chứ không phải dân và doanh nghiệp) làm khổ mình, trói chân mình, gây tổn hại cho đất nước. Nên huỷ bỏ tất cả các loại trần lãi suất.
Nhưng làm sao việc huỷ bỏ những công cụ bất hợp lý rành rành lại khó đến vậy. Không thể đổ lỗi tất cả lên đầu Ngân hàng Nhà nước. Họ bị quá nhiều ràng buộc và họ không được độc lập.
Ngay cả việc bỏ trần lãi suất cho vay của họ cũng là chuyện “lách luật” của một cơ quan nhà nước. Họ hiểu kỹ và muốn xoá bỏ tận gốc việc “tự trói mình” bằng cách kiến nghị sửa luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng hay sửa luật dân sự.
Thế nhưng còn nhiều “nghị sĩ” vẫn chưa hiểu, chưa đồng tình. Họ hiểu nhầm các khái niệm “lãi suất cơ bản”, một công cụ điều tiết quan trọng của Ngân hàng Nhà nước, và do sự hiểu lầm đó, cũng như hành văn không chuẩn xác của một điều của Luật Dân sự, xác định trần lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản, là những sợi dây mà họ tự trói chân tay mình. Đấy là cái gốc cần sửa, cần cắt phăng các sợi dây trói buộc đó đó. Nhiều người chưa hiểu vẫn lớn tiếng đòi giữ các quy định sai và lỗi thời đó, các sợi dây tai ác đó mà vẫn nghĩ mình đang bảo vệ lợi ích của nhân dân, của đất nước.
Không ai đòi hỏi mọi đại biểu Quốc hội đều phải là chuyên gia về mọi lĩnh vực hay thậm chí về một lĩnh vực cụ thể, như ngân hàng. Song đại biểu cần lắng nghe các chuyên gia phân tích điều hay lẽ phải và trên cơ sở đó đưa ra quyết định của mình khi bấm nút hay đề xuất sửa đổi một luật.
Những người chịu trách nhiệm trình – trong trường hợp này là Ngân hàng Nhà nước – cũng nên cải thiện cách trình bày lập luận của mình để cho các đại biểu Quốc hội hiểu rõ và chính xác.
Làm được thế sẽ giải quyết tận gốc rễ bao nhiêu chuyện tự trói mình một cách hết sức phi lý mà quy định về lãi suất trần chỉ là một trường hợp cụ thể trong rất nhiều ví dụ “tự trói” của các luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Công ty luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)
6. Những rủi ro về lãi suất dưới góc độ pháp lý ?
Với chủ các ngân hàng và doanh nghiệp, đây là quyết định không thể không hợp thức hóa hoạt động thực tiễn lâu nay của họ, giúp khơi thông nguồn vốn đã có dấu hiệu tồn đọng và phát sinh những khoản chi phí khi giao dịch mà không thể đưa vào sổ sách kế toán. Với một số ý kiến chuyên gia nhìn bằng lăng kính pháp lý hiện hành và những doanh nghiệp đang họat động chủ yếu bằng nguồn vốn vay, mà không thể huy động vốn bằng các nguồn khác, thì mức lãi suất mà họ có thể thỏa thuận hiện nay chắc chắn sẽ phạm Luật dân sự vì đã phải chấp thuận mức lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản (8%/năm) mà Ngân hàng Nhà nước công bố.
.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Giữa những luồng ý kiến băn khoăn ấy, những thông tin về các vụ giật hụi, chủ nợ cho vay nặng lãi, doanh nghiệp đút lót cả chục tỷ đồng cho quan chức Ngân hàng để nhận được khoăn vay theo lãi suất quy định của pháp luật vẫn rộn ràng khắp nơi.
Ngoài vụ bị bắt quả tang như ở BIDV, dường như các vụ tranh chấp vay nợ theo lãi suất thỏa thuận nặng lãi bên ngoài không có dấu hiệu sẽ được giải quyết bằng thủ tục pháp lý bởi các cơ quan công quyền với lý do con nợ và chủ nợ tự thỏa thuận cách giải quyết với lý do "hành vi thỏa thuận nợ không được chính quyền công nhận, bất hợp pháp ngay từ khi nó phát sinh".
Hơn nữa, cần tách bạch hợp đồng tín dụng của các pháp nhân là ngân hàng thương mại với những thỏa thuận dân sự giữa các thể nhân là công dân có năng lực pháp lý và khả năng chịu trách nhiệm pháp luật về hành vi trong cuộc sống hàng ngày. Có như vậy, việc lãi suất ngân hàng vượt ngưỡng 150% lãi suất cơ bản có được coi là hoạt động vi phạm pháp pháp luật hay không hay cơ chế nào để giải quyết những vụ trốn nợ, giật hụi đây đó đang xảy ra.
Hoạt động ngân hàng là hợp đồng kinh tế, được đỉều chỉnh bằng các văn bản pháp lý Luật kinh tế, được phán xử tại Tòa kinh tế. Hoặc hành vi bằng các thủ đọan không trung thực để lừa gạt, dụ dỗ, cưỡng bức để bắt một người phải nhận nợ với lãi suất cao; hoặc một người đưa ra cam kết trả lãi suất cao mà không có bằng chứng cho thấy họ có năng lực và khả năng nâng cao giá trị khỏan vay để lấy tiền của người cho vay, là những dấu hiệu vi phạm đạo đức và pháp luật ngay khi bắt đầu thực hiện hành vi bởi động cơ không trung thực. Hành vi đó không thuộc hình thức hợp đồng kinh tế mà phải được coi là dấu hiệu của tội lừa đảo và phải được điều chỉnh bởi luật Dân sự, Luật hình sự.
Ngân hàng như một Nhà máy mà "đầu vào" cũng như "đầu ra" đều là giá trị tiền. Hoạt động ngân hàng không đơn thuần là nhận tiền gửi rồi lại mang số lượng tiền ấy cho vay để nghiễm nhiên hưởng chênh lệch lãi suất.
Thực tế, có hẳn một Học viện Ngân hàng, nhiều thạc sỹ và tiến sỹ về họat đông ngân hàng trong và ngoài nước đang làm việc trong các tổ chức tín dụng này. Vậy thì, giữa đồng tiền "vào" và đồng tiền "ra" qua cửa ngân hàng chắc hẳn nó phải được xử lý, nó phải được phân tích để ra kết quả về mức lãi suất "vào" và khả năng rủi ro khi cho nó "ra". Nhân lực ngân hàng phải xử lý các đầu đề bài toán đó và cho ra kết quả tối ưu bảo đảm lãi suất đủ thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội và dòng tiền ra phát huy hiệu quả cho chủ đầu tư và có tỷ suất cao quay trở lại khi đến hạn. Một hoạt động có kết tinh chất xám như thế trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt với các đối thủ không chỉ trong nước mà trong tương lai gần cả với các ngân hàng nước ngoài thì không thể quan niệm và kết luận rằng hoạt động ấy đơn thuần chỉ mang tính cơ học.
Đặc biệt, việc đánh giá rủi ro khi quyết định cho vay của Ngân hàng thực sự là một khoa học đòi hỏi các nhân viên có đạo đức nghề nghiệm vững, trình độ học vấn cao, kinh nghiệm thực tiễn phong phú…
Mọi đánh giá sai đều dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng cho nguồn vốn của chủ ngân hàng và đánh đổi bằng hiệu quả của rất nhiều dự án khác mới bù đắp được. "Mười đấm có lãi không bằng một cú đạp nợ khó đòi" – đó là câu dằn lòng của các cán bộ tín dụng.
Ngân hàng không thể tự ý áp đặt lãi suất cả đầu ra lẫn đầu vào vì còn các đối thủ cùng ngành trong và ngoài nước cạnh tranh. Người vay cũng không buộc phải chấp thuận bất cứ lãi suất nào nếu như chi phí vốn không bù đắp được sự sụt giảm doanh thu và không có lãi, họ còn có quyền chọn ngân hàng để vay và cả cơ chế thỏa thuận trực tiếp bằng uy tín thương hiệu và độ tín nhiệm với ngân hàng.
Khi hoạt động của nền kinh tế phải chịu mức chi phí vốn đầu vào cao hơn mặt bằng trước đó thì cũng là động lực buộc các chủ đầu tư và doanh nghiệp vay vốn phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay bằng áp dụng công nghệ tiên tiến, bằng cải tiến quản lý nâng cao năng suất và bằng các biện pháp tổng hợp khác để tồn tại và phát triển.
Ngược lại, hoạt động cho vay nặng lãi hầu như là các hoạt động giữa các cá nhân, không được pháp luật công nhận và bảo vệ khi có tranh chấp. Dó đó, cả hai phía: bên cho vay và bên nhận nợ đều vi phạm Luật dân sự và Luật hình sự ngay từ khi phát sinh giao dịch. Và hầu như, các thể nhân tham gia giao dịch trong hoạt động này không đủ kiến thức đánh giá, nghiên cứu nhu cầu và khả năng hòan trả vốn trong các giao dịch này – ít nhất là từ phía người nhận nợ.
Vì thế, nên coi hoạt động ngân hàng là việc thực hiện các hợp đồng kinh tế và được điều chỉnh bằng các văn bản pháp quy về Kinh tế. Lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước không phải chỉ đóng vai trò là khống chế trần lãi vay như quan niệm phổ biến mà còn đóng vai trò trong việc bày tỏ thái độ của Nhà nước về cung tiền, xu hướng điều chỉnh chính sách vĩ mô, quy định lãi suất của các nghiệp vụ tài chính khác: lãi suất tái cấp vốn, vay qua đêm, trái phiếu…
Đừng vì cách hiểu cứng nhắc và không đầy đủ về lãi suẩt cơ bản để làm ách tắc luồng lưu chuyển của tiền tệ trong nền kinh tế. Cơ thể của nền kinh tế sẽ yếu và suy kiệt nếu như dòng huyết mạch của nó là luồng tiền bị nghẽn mạch.
Luật Minh Khuê (biên tập)