1. Tội mua bán người được hiểu là gì?

Tội phạm được hiểu là các hành vi có thể gây nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự. Những hành vi này có thể được thực hiện cố ý hoặc vô ý bởi những người có năng lực hành vi hình sự hoặc các tổ chức thương mại. Tội phạm có thể bao gồm việc xâm phạm đến độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đe dọa chế độ chính trị, chế độ kinh tế văn hóa, quốc phòng, án ninh cũng như xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người.

Hiện nay trong bối cảnh xã hội đương đại thì hành vi mua bán người bao gồm việc buôn bán người qua biên giới đã trở thành một vi phạm pháp lý nghiêm trọng có thể dẫn điến trách nhiệm hình sự nghiêm khắc. Cụ thể theo quy định tại điều 150 của Bộ luật hình sự 2015 và các điều chỉnh sửa bổ sung luật sửa đổi 2017 thì tội phạm mua bán người được xác định:

Theo quy định thì tội mua bán người được hiểu là một hành vi tội phạm có tính chất cố ý trong đó thì người thực hiện hành vi này xâm phạm trực tiếp vào các quyền cơ bản của nạn nhân chẳng hạn như quyền tự do và quyền con người của người đó. Hành vi này được coi con người như một sản phẩm, hàng hóa một món hàng để trao đổi và mua bán với mục tiêu kiếm lợi nhuận.

2. Cơ sở và ý nghĩa của quy định tội mua bán người trong luật hình sự

Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định liên quan đến tội phạm mua bán người chính xác hơn là tại điều 150 về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại điều 151. Điều này đại diện cho sự tiến bộ so với các phiên bản trước đó của bộ luật hình sự như Bộ luật hình sự năm 1985 và bộ luật hình sự năm 1999. Bộ luật hình sự 2015 đã cung cấp một hệ thống quy định chi tiết và rõ ràng về cả hành vi và hình phạt liên quan đến tội phạm mua bán người.

Theo Bộ luật hình sự 2015 thì tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi được phân thành ba nhóm hành vi chính: NHóm hành vi đầu tiên liên quan đến hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người để mua bán và đi kèm với việc nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Đây là hành vi mua bán người thông thường đã được quy định tại các phiên bản trước đó của luật Hình sự Việt Nam như bộ luật hình sự 1985 và bộ luật hình sự năm 1999.

Nhóm hành vi thứ hai bao gồm hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tinh dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. Bóc lột tình dục được hiểu là ép buộc người khác bán dâm làm đối tượng để sản xuất ấn phẩm khiêu dâm, trình diễn khiêu dâm và làm nô lệ tinh dục. Cưỡng bức lao động được hiểu là việc dùng vũ lực đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác buộc người khác lao động trái ý muốn của họ.

Nhóm hành vi thứ ba bao gồm tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi thuộc nhóm hành vi thứ nhất và thứ hai.

Bên cạnh Bộ luật hình sự 2015 quy định thì Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn về tội phạm mua bán người cả về luật nội dung và luật hình thức. Nghị quyết số 02/2019/ NQ- HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC là một ví dụ điển hình về ví dụ hướng dẫn cụ thể về tình tiết định tội và tình tiết định khung hình phạt liên quan đến tội mua bán người như đã quy định tại điều 150 và điều 151 bộ luật Hình sự. Nghị quyết này cũng hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp cụ thể như sử dụng thủ đoạn mô giới hôn nhân với người nước ngoài, đưa người đi lao động nước ngoài, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, sử dụng thủ đoạn mô giới để nuôi con nuôi và trong các trường hợp có nhiều hành vi phạm tội.

Ngoài ra thì TANDTC còn ban hành các giải đáp và công văn hướng dẫn nghiệp vụ liên quan đến tội phạm mua bán người. Hướng dẫn về luật hình thức cũng như thực hiện thông qua các thông tư chẳng hạn như Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 quy định về việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân trong đó có Tòa gia đình và người chưa thành niên. Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 quy định về phòng xử án bao gồm mô hình phòng xử án và giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án gia đình và người chưa thành niên. Thông tư số 02/2018/TT- TANDTC ngày 21 tháng 9 năm 2018 đi sâu vào vệc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng dưới 18 tuooiro thuộc thẩm quyền của Tòa án gia đình và người chưa thành niên. Cuối cùng thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT - VKSNDTC - TANDTC - BCA - BTP - BLĐTBXH ngày 21 tháng 12 năm 2018 quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.

3. Ví dụ về tội mua bán người

Theo quy định tại nghị quyết số 02/2019/NQ- HĐTP ban hành ngày 1/1/2018 bởi Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về  hướng dẫn việc áp dụng điều 150 về tội mua bán người và điều 151 tội mua bán người dưới 16 tuổi thì có nhiều hành vi phạm tội như sau:

Trong trường hợp có thủ đoạn không tuân theo quy định tại khoản 1 điều 150 bộ luật hình sự thì các thủ đoạn này bao gồm: Bắt cóc cho nạn nhân sử dụng thuốc ngủ hoặc thuốc gây mê, uống rượu bia hoặc các chất kích thích nhằm làm nạn nhân mất khả năng nhận thức hoặc kiểm soát hành vi của mình. Đầu độc nạn nhân, lợi dụng các hoạt động mô giới hôn nhân hoặc đưa người đó ra nước ngoài làm việc, lợi dụng tình thế bắt buộc lệ thuộc hoặc quẫn bách củ nạn nhân được tính vào thủ đoạn này.

Ví dụ: Nếu một người lợi dụng tình trạng của nạn nhân có người thân đang bị bệnh hiểm nghèo và cần tiền để điều trị ngay lập tức thì nếu không thẻ gây nguy hiểm cho tính mạng của họ để thực hiện một trong những hành vi mô tả tại khoản 1 điều 150 Bộ luật hình sự 2015.

Cần xem xét trường hợp bóc lột tình dục như được quy định tại điểm b khoản 1 điều 15o và điểm b khoản 1 điều 151 của bộ luật hình sự 2015 thì điều này nhằm ám chỉ trường hợp chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển hoặc chứa chấp nạn nhân với mục đích chuyển giao cho người khác để thực hiện các hoạt đọng bóc lột tình dục hoặc tiếp nhận nạn nhân để phục vụ nhu cầu tình dịch của chính họ.

Ví dụ: Có thể bao gồm việc tổ chức cho nạn nhân tham gia vào các hoạt động mua bán dâm, đưa nạn nhân đến cơ sở cung cấp dịch vụ mại dâm , sử dụng nạn nhân để sản xuất những nội dung khiêu dâm , tham gia vào biểu diễn khiêu dâm hoặc làm cho nạn nhân trở thành nô lệ tình dục.

Hơn nữa thì việc lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân như theo quy định tại điểm b của khoản 1 điều 150 và điểm b khoản 1 điều 151 của Bộ luật hình sự 2015 có thể xảy ra trong trường hợp chuyển giao tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển hoặc chứa chấp nạn nhân để lấy bộ phận trên cơ thể của họ. Bộ phận trên cơ thể được định nghĩa như một phần của cơ thể con người hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý cụ thể.

Ví dụ: Trường hợp NGuyễn Văn An đã chuyển giao Nguyễn Thị M cho Nguyễn Văn B với mục địch B lấy thận của của chị M mặc dù thực tế thì B chưa thực hiện hành vi lấy thận của chị M.

Bạn đọc có thể tham khảo bài viết sau: Phân tích đặc điểm, khung hình phạt tội mua bán người?

Bài viết trên luật Minh Khuê đã gửi tới bạn đọc chi tiết về vấn đề: Cơ sở và ý nghĩa quy định tội mua bán người trong luật hình sự. Trong bài viết có mục nào chưa hiểu hay bạn đọc có bất kỳ thắc mắc về vấn đề pháp lý có thể liên hệ qua số tổng đài 19006162 hoặc thông qua địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn để được hỗ trợ.