trong một thời gian nhất định, bao gồm: quan hệ vay mượn giữa các nhà nước, giữa các tổ chức nhà nước, giữa các tổ chức cá nhân của các nước, giữa các tổ chức tài chính quốc tế với các nước.

 

1. Khái niệm về đầu tư theo hình thức vay thương mại

Các khoản vay thương mại là một thuật ngữ thường được sử dụng để chỉ định các khoản vay không được duy trì thường xuyên bởi các bộ phận cho vay bất động sản hoặc cho vay tiêu dùng. Trong phân phối tài sản, các khoản vay thương mại hoặc kinh doanh thường bao gồm một trong những tài sản quan trọng nhất của một ngân hàng quốc gia. Chúng có thể được bảo đảm hoặc không được bảo đảm và cho các kì hạn ngắn hoặc dài hạn. Các khoản vay này bao gồm các khoản tạm ứng vốn lưu động, các khoản vay kinh doanh có kì hạn, tín dụng nông nghiệp và các khoản vay cho các cá nhân vì mục đích kinh doanh, vốn vay thương mại thường là vốn lưu động hoặc các khoản vay có thời hạn, cung cấp nguồn tài trợ theo nhu cầu của bên vay vốn và được hoàn trả theo hạn. Cho vay của ngân hàng thương mại, nói rộng ra là tín dụng ngân hàng thương mại, là một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên cập nhật theo những biến chuyển của môi trường kinh tế.

Đầu tư theo hình thức vay thương mại là một khoản vay thương mại trong thỏa thuận tài trợ giữa một doanh nghiệp với một tổ chức tài chính, để tài trợ cho chi phí vốn lớn bao gồm cả chi phí hoạt động mà doanh nghiệp của nước nhận đầu tư không có khả năng chi trả.

Chi phí trả trước tốn kém và những rào cản pháp lý thường hạn chế các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận trực tiếp với thị trường vay thương mại của quốc tế hoặc chủ sở hữu vốn vay. Tương tự như tín dụng tiêu dùng, các doanh nghiệp nhỏ hơn phải dựa vào các sản phẩm cho vay khác, chẳng hạn như hạn mức tín dụng, các khoản vay không có bảo đảm hoặc các khoản vay có kì hạn.

Kinh tế càng phát triển, doanh số cho vay của các ngân hàng thương mại càng tăng nhanh và loại hình cho vay càng trở nên vô cùng đa dạng ở hầu hết các nước phát triển hàng đầu thế giới, cho vay của các ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn; Khu vực cho vay ngắn hạn nhường chỗ cho thị trường tài chính - tiền tệ cung ứng. Ngược lại, ở hầu hết các nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ việc thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có những tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát...).

 

2. Đặc điểm của hình thức cho vay thương mại

Nguồn tín dụng do bên cho vay (chủ đầu tư) tự tạo bằng vốn tự có hoặc bằng vốn lưu động trên thị trường vốn trong nước hay quốc tế. Đồng tiền cho vay có thể là đồng tiền của nước chủ đầu tư, hoặc một ngoại tệ có khả năng chuyển đổi. Thời hạn tín dụng là một yếu tố quan trọng để xác định giá cả của mỗi khoản tín dụng. Thông thường, bên vay nợ (bên nhận đầu tư) muốn thời gian càng dài càng tốt để có đủ thời gian sử dụng vốn vay có hiệu quả, đảm bảo khả năng hoàn trả nợ.

Lãi suất là yếu tố chính cấu thành giá cả khoản vay và cũng là yếu tố quan trọng để xác định hiệu quả của khoản tín dụng đối với bên cho vay cũng như bên đi vay. Các khoản tín dụng thường được lấy làm cơ sở để tính lãi suất cho vay, thường là lãi suất liên ngân hàng tại Luân Đôn (London Interbank Offered Rate - LIBOR), tương ứng với ngoại tệ dùng trong khoản tín dụng và thời hạn tính lãi. Ví dụ, một khoản tín dụng bằng USD, thời hạn 03 năm, trả dần cứ 06 tháng một phần bằng nhau. Lãi suất được xác định là lãi suất LIBOR USD, thời hạn 6 tháng tại thị trường Luân Đôn, vào hồi 1 Ih Luân Đôn 02 ngày trước ngày rút tiền để sử dụng. Đầu mỗi kì lại xác định lại lãi suất cho kì đó theo cách nêu trên. Vì vậy, vay nợ theo lãi suất LIBOR là vay nợ với lãi suất biến động tùy theo tình hình liên thị trường tiền tệ, có thể hạ thấp hoặc lên cao.

Phí suất tín dụng là một yếu tố quan trọng trong quan hệ tín dụng. Phí suất tín dụng là tỉ lệ phần trăm tính theo năm của quan hệ so sánh giữa tổng chi phí vay thực tế và tổng số tiền vay thực tế. Phí suất tín dụng không được công bố trong hợp đồng tín dụng. Các yếu tố cấu thành phí suất tín dụng gồm: lãi suất, thủ tục phí, lệ phí, hoa hồng, đặt cọc và các khoản chi phí giấu mặt khác. Bên vay phải căn cứ vào phí suất tín dụng để hạch toán lỗ lãi của khoản vay mà không thể dựa vào lãi suất vay của ngân hàng.

Bên cho vay thường yêu cầu các khoản tín dụng phải được bảo lãnh bởi cơ quan tài chính hoặc ngân hàng lớn có uy tín trên thị trường vốn trong nước và quốc tế. Ngoài ra, bên cho vay có thể còn yêu cầu phải có ý kiến của một số luật gia bên vay, chứng nhận khoản vay là hợp pháp theo luật pháp của bên vay.

Quan hệ giữa chủ đầu tư và đối tượng nhận đầu tư là quan hệ vay nợ. Đối với nhận đầu tư không có quyền sở hữu chỉ có quyền sử dụng vốn của chủ đầu tư frong một khoảng thời gian nhất định, sau đó phải hoàn trả lại cho chủ đàu tư cả gốc và lãi.

Chủ đầu tư tuy không trực tiếp tham gia vào quản lý hoạt động của doanh nghiệp tiếp nhận vốn nhưng trước khi cho vay đều nghiên cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh hoặc thế chấp các khoản vay để giảm rủi ro.

Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận qua lãi suất ngân hàng theo thỏa thuận giữa hai bên và ghi trong hợp đồng vay độc lập với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp vay (đối tượng nhận đầu tư).

Hình thức đầu tư này được sử dụng khá phổ biến. Ưu điểm của hình thức này là người đi vay dễ dàng chuyển vốn vay thành các phương tiện đầu tư khác vì khoản vốn này chủ yếu dưới dạng tiền tệ và hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng vốn theo mục đích của họ. Người cho vay có thu nhập ổn định là tiền lãi vay, khoản tiền này không phụ thuộc vào kết quả sử dụng vốn. Người cho vay còn có thể đưa ra một số ràng buộc đối với người vay.

Nhược điểm của hình thức này là hiệu quả sử dụng vốn thường thấp do bên nước ngoài không trực tiếp tham gia quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Ket cục, nhiều nước đang và chậm phát triển lâm vào tình trạng nợ nần, thậm chí không có khả năng chi trả dẫn đến phụ thuộc vào chủ nợ.

 

3. Phân loại hình thức cho vay thương mại

Cho vay thương mại được chia thành hai loại chính:

- Căn cứ vào chủ thể tín dụng:

Căn cứ vào chủ thể tín dụng để phân loại thì tín dụng quốc tế có thể chia thành hai loại: tín dụng tư nhân thuần túy và tín dụng hỗn hợp với tín dụng nhà nước.

Tín dụng tư nhân thuần thuý là khoản tín dụng giữa các tổ chức tư nhân ở nước ngày với tổ chức tư nhân ở nước khác.

Tín dụng hỗn hợp với tín dụng nhà nước là khoản tín dụng có sự kết hợp giữa nhà nước và ngân hàng thương mại của nước này cung cấp cho nước khác. Khoản tín dụng gồm hai bộ phận là khoản tín dụng của chính phủ (governmental credit) và khoản tín dụng ngân hàng (bank credit). Trong những khoản tín dụng hỗn hợp với tín dụng nhà nước, lãi suất của tín dụng tư nhân vẫn giữ tính độc lập của nó. Các khoản tín dụng nhà nước thường được cấp với lãi suất ưu đãi, không phụ thuộc vào lãi suất tín dụng trên thị trường mà chỉ phụ thuộc vào tình hình quan hệ giữa nước cho vay và nước vay nợ.

- Căn cứ vào thời hạn cho vay:

Căn cứ vào thời hạn cho vay có thể chia thành:

Tín dụng không có kì hạn ấn định trước là loại tín dụng mà ngân hàng không quy định thời hạn nhất định, khi muốn thu hồi vốn, ngân hàng sẽ báo trước cho người vay một số ngày nhất định.

Tín dụng ngắn hạn gồm những khoản tín dụng thông thường có thời hạn không quá 01 năm, hoặc có thể 18 tháng, 02 năm tùy theo tập quán từng nước.

Tín dụng trung hạn gồm những khoản tín dụng có thời hạn trên loại ngắn hạn cho đến 05 hoặc 07 năm.

Tín dụng dài hạn gồm những khoản tín dụng có thời hạn trên loại trung hạn cho đến 30 - 50 năm.

Từ năm 1993, Việt Nam bắt đầu vay vốn viện trợ từ các định chế tài chính đa phưong và song phưomg như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các nước Nhật Bản, Pháp, Đan Mạch, Canada... Ke từ năm 2010, Việt Nam đã chính thức gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp. Điều này tất yếu kéo theo các khoản ODA dành cho Việt Nam sẽ càng ngày càng ít đi, thay vào đó là các khoản vay thương mại. Kể từ thời điểm này, Bộ Ke hoạch và Đầu tư của Việt Nam đã định hướng nước ta phải chuyển từ ODA sang các khoản vay lãi suất thấp hon, rồi chuyển sang các khoản vay thương mại bình thường. Chính phủ Việt Nam chủ trưong phân bổ nguồn vốn ODA sẽ được siết chặt lại. Các đối tượng nhận viện trợ ODA sẽ không được hưởng 100% ưu đãi như trước đây mà đòi hỏi sẽ phải có vốn đối ứng hoặc có khả năng hoàn trả một phần vốn.

Thực tế, đến tháng 7/2017, WB “tuyên bố” chấm dứt cung cấp nguồn vốn ODA ưu đãi cho Việt Nam, thay vào đó các khoản vay ưu đãi với mức lãi suất cao hơn. Cùng với đó, có thể nhiều nguồn vốn ODA song phương và đa phương dành cho Việt Nam cũng sẽ giảm dần. Việt Nam sẽ phải chuyển sang “giai đoạn bước đệm” là sử dụng nguồn von vay ưu đãi trước khi tiến tới vay thương mại theo điều kiện thị trường.

Luật Minh KHuê (tổng hợp)